[go: up one dir, main page]

Bước tới nội dung

Kanon

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Đây là một phiên bản cũ của trang này, do Trần Nguyễn Minh Huy (thảo luận | đóng góp) sửa đổi vào lúc 09:06, ngày 4 tháng 1 năm 2011 (Liên kết ngoài). Địa chỉ URL hiện tại là một liên kết vĩnh viễn đến phiên bản này của trang, có thể khác biệt rất nhiều so với phiên bản hiện hành.

Bản mẫu:Kanon/Đầu Kanon (カノン?) là một visual novel do hãng phần mềm Key phát triển, công ty này cũng cho ra đời hai tác phẩm nổi tiếng khác là AIRCLANNAD. Lúc đầu nó là một trò chơi dành cho người lớn phát hành vào ngày 4 tháng 6 năm 1999 trên hệ điều hành Microsoft Windows của PC. Phiên bản dành cho mọi lứa tuổi trên PC phát hành vào tháng 1 năm 2000, sau đó cũng xuất hiện trên các hệ máy Dreamcast, PlayStation 2PlayStation Portable. Bản tiêu chuẩn của Kanon (Kanon Standard Edition) trên hệ PC dành cho người lớn phát hành vào tháng 11 năm 2004; và bản dành cho mọi lứa tuổi phát hành vào tháng 1 năm 2005. Cả hai bản Standard Edition đều được phát hành dưới dạng DVD-ROM và có chứa nhiều hình ảnh dành cho mọi lứa tuổi hơn các phiên bản trước đó, cùng việc tương thích với hệ điều hành Windows 2000/XP cũng như các cải tiến về công nghệ, chẳng hạn như có nhiều lần lưu hơn. Cách chơi của Kanon theo lối tuyến tính, tuy chỉ đi theo cốt truyện định sẵn nhưng người chơi có thể tương tác để tạo ra các kết thúc khác nhau. Cốt truyện chủ yếu đi sâu vào nội tâm của năm nhân vật nữ chính.

Kanon cũng được chuyển thể thành tiểu thuyết ánh sáng, drama CD, manga và hai bộ anime. Bộ anime đầu tiên gồm 13 tập phát sóng tại Nhật Bản từ tháng 1 đến tháng 3 năm 2002. Nó, cùng một tập OVAKazahana, đã được phát hành vào tháng 3 năm 2003. Cả bộ anime và OVA đã được sản xuất bởi hãng sản xuất hoạt hình Toei Animation. Bộ anime thứ hai là bản làm lại của bộ anime thứ nhất, nhưng dài hơn với 24 tập, thực hiện bởi Kyoto Animation, đã phát sóng tại Nhật Bản từ tháng 10 năm 2006 đến tháng 3 năm 2007. Đầu tiên, bộ anime này đã đăng ký bản quyền bởi ADV Films, nhưng sau đó đã chuyển nhượng sang cho Funimation vào tháng 7 năm 2008 để phát hành phiên bản tiếng Anh. Bộ anime thứ hai là sự kết hợp giữa Kanondòng nhạc canon khi sử dụng các bản nhạc Kanon D-dur hay Canon cung Rê trưởng của Pachebel, làm nhạc nền trong một số cảnh của tác phẩm.

Ngay từ lần đầu tiên phát hành, visual novel Kanon đã nhận được nhiều ý kiến đánh giá khác nhau của những nhà bình luận, có cả khen ngợi lẫn phê bình trong tất cả phương tiện truyền thông mà nó chuyển thể. Giống như hai chị em của nó là AIRCLANNAD, Kanon được đánh giá là một siêu phẩm nhờ một cốt truyện rất chi tiết và có nội dung sâu sắc. Tác phẩm đã trở thành một thương hiệu vì sự nổi tiếng của mình và rất nhiều sản phẩm ăn theo đã thực hiện với tên Kanon; ngoài ra, đồng hành cùng nó còn có một khái niệm mới là "crying game", tiền thân của thể loại Nakigē (泣きゲー?), được xem như là một hướng đi mới trong việc thực hiện cốt truyện của các visual novel trở nên sâu lắng hơn, thay cho việc dùng các hình ảnh hentai chỉ mang ý nghĩa câu khách và không hề ảnh hưởng gì tới nội dung chính. Sự thành công của Kanon là nguồn động lực để các nhân viên của Key tự tin hơn khi thực hiện các tác phẩm tiếp theo, cũng như đã giúp công ty này trở nên nổi tiếng trong thị trường bishōjo game Nhật Bản đầy biến động lúc bấy giờ.

Cách chơi

Một đoạn hội thoại thường gặp giữa người chơi và nhân vật Ayu trong visual novel Kanon.

Cách chơi của Kanon chỉ đòi hỏi người chơi tương tác ở một vài đoạn, phần lớn thời gian còn lại là đọc những dòng chữ xuất hiện trên màn hình, thường mô tả đoạn đối thoại giữa các nhân vật khác nhau xen lẫn suy nghĩ nội tâm của nhân vật chính. Một yếu tố quan trọng có trong Kanon (cũng như hầu hết các visual novel khác) đó là người chơi chỉ có thể tương tác khi đến "điểm quyết định" thường xuất hiện và có vài lựa chọn được đưa ra. Các "điểm quyết định" này thường thay đổi và xuất hiện không đều đặn, có thể cách nhau ít phút hoặc lâu hơn. Trong khi người chơi đang phân vân giữa các lựa chọn, visual novel sẽ dừng lại chờ cho đến khi người chơi đưa ra quyết định, sau đó cốt truyện sẽ tiến triển theo một hướng nhất định[1][2].

Sẽ có năm kịch bản chính tạo điều kiện cho người chơi trải nghiệm, tương ứng với năm nhân vật nữ chính. Đồng nghĩa với việc mỗi kịch bản đòi hỏi người chơi phải chơi lại nhiều lần, mỗi lần lại chọn những hướng khác nhau để đạt được những kết thúc tương ứng, từ đó mới nắm bắt được nội dung của toàn bộ visual novel[1]. Maeda Jun, người đã viết kịch bản cho Kanon, đã phát biểu trên các phương tiện truyền thông đại chúng vào tháng 3 năm 2001, rằng người Nhật tưởng rằng Key chuyên làm trò chơi dịu dàng vì hiệu ứng của Kanon, nhưng Maeda Jun cũng khẳng định rằng chẳng ai trong nhóm sản xuất từng nghĩ sẽ như thế[3].

Phiên bản ban đầu của Kanon cho phép người chơi nhìn thấy những cảnh người lớn, như việc nhân vật Yuichi và một trong năm nhân vật nữ chính cùng quan hệ tình dục[1][4]. Sau này Key đã phát hành hai phiên bản của Kanon không chứa bất kỳ những hình ảnh kích thích nào và dành cho mọi lứa tuổi[4]. Những phiên bản có cảnh người lớn thể hiện một đoạn tình dục cho mỗi mạch truyện, vào thời điểm từ 50-75% thời gian của mỗi mạch truyện, ngoại trừ một cảnh trong thế giới tưởng tượng[1]. Ngoài ra chỉ có hai tấm hình khỏa thân giống y nhau suốt kịch bản game[1]. Suzumoto Yūichi, người viết kịch bản tham gia vào Key sau này, phát biểu rằng các cảnh "nóng bỏng" trong Kanon không liên quan đến cốt truyện, chúng có thể dễ dàng tháo ra mà không ảnh hưởng đến kịch bản[3]. Maeda cũng từng được hỏi là ông nghĩ gì khi các hình ảnh khiêu dâm được vẽ có thể kích thích bản năng tự nhiên của con người, nhưng Maeda đã nói rằng nó chẳng thể nào xảy ra trong Kanon hay AIR[3].

Tổng quan

Bản mẫu:Biết trước nội dung

Chủ đề và thiết lập

Có một số địa điểm quan trọng đặc trưng xuất thường hiện trong Kanon, nhưng tên các địa điểm thường ít khi được đề cập trong các tác phẩm của Key. Thời gian khi câu chuyện xảy ra là vào mùa đông, chính vì thế tuyết luôn xuất hiện trong hầu hết các màn chơi và phong cảnh thành phố luôn bao phủ bởi một lớp tuyết trắng. Khu mua sắm là địa điểm xuất hiện nhiều nhất trong cốt truyện mỗi khi nhân vật chính đi vào thành phố, đặc biệt là cứ mỗi khi có sự hiện diện của nhân vật Ayu vào phần đầu câu chuyện. Trường trung học là nơi mà Yuichi và các nhân vật chính khác cùng góp mặt, bao gồm cả sân trường, là địa điểm chính trong câu chuyện của Shiori và Mai, nếu không thì nó cũng là địa điểm chung nơi Yuichi tương tác với các nhân vật khác[1].

Có nhiều chủ đề khác nhau được đề cập xuyên suốt cốt truyện của Kanon. Ví dụ như âm nhạc, các tựa của các tập anime phát sóng năm 2006–2007 có liên quan đến âm nhạc như Overture (khúc dạo đầu) hay Introit (thánh ca). Những điều kỳ diệu cũng đóng vai trò chính trong suốt tác phẩm, các cốt truyện và nhân vật trong Kanon cũng bị tác động ít nhiều theo những cách khác nhau mỗi khi điều kỳ diệu xảy ra[5]. Sự "hứa hẹn" và "thực hiện lời hứa" luôn được đề cập đến suốt cốt truyện[6]. Nhân vật chính cũng đã hứa một lời hứa quan trọng với cả năm nhân vật nữ chính vào cùng một thời điểm lúc anh đến thành phố chơi khi còn bé[1].

Một trong những chủ đề xuyên suốt nữa của Kanon là hiện tượng mất trí nhớ. Ba nhân vật chính là Yuichi, Ayu và Makoto bị ảnh hưởng bởi việc mất trí nhớ theo nhiều cách khác nhau, chủ đề này sử dụng để có thể phát triển cốt truyện[1]. Một đề tài phụ khác liên quan đến các món ăn ưa thích của năm nhân vật nữ chính, tạp chí Newtype có đoạn bình luận về Kanon rằng: "Mỗi khi các nhân vật chính ăn thứ gì thực sự ngon thì họ trông vô cùng dễ thương và sống động", cho dù chủ đề này hơi bị lưu mờ suốt tác phẩm[7]. Năm món ăn ưa thích của năm nhân vật nữ chính là: taiyaki (Ayu), dâu tây (Nayuki), nikuman (Makoto), kem (Shiori) và gyūdon (Mai)[1].

Nhân vật chính

Theo chiều kim đồng hồ từ hình trên cùng bên trái xuống dưới: Mai, Nayuki, Shiori, Ayu và Makoto - 5 nhân vật nữ chính của visual novel.

Người chơi sẽ nhập vai Aizawa Yuichi, nhân vật chính của Kanon. Anh là một học sinh trung học 17 tuổi có óc hài hước, thường hay trêu các cô gái cùng tuổi với mình (cũng là các nhân vật chính trong câu chuyện). Ngoài ra Yuichi còn rất tốt bụng với bạn bè và sẵn sàng làm mọi thứ kể cả việc bỏ thời gian và tiền bạc của mình để giúp đỡ bất cứ ai xung quanh. Anh khá rộng lượng và không đòi hỏi những người từng được anh giúp trả công cho mình. Tsukimiya Ayu, một trong những nhân vật nữ chính của Kanon, là một cô gái có chiều cao khiêm tốn, kỳ lạ và bí ẩn, có thể dễ dàng nhận ra cô ngay vì chiếc cặp có đôi cánh đeo sau lưng cùng chiếc xước tóc màu đỏ, và thường nói thêm chữ boku (?) sau mỗi câu nói với người khác giới. Ayu thường xuất hiện trong visual novel khi đang ăn taiyaki, cô luôn lẩm nhẩm từ "ugū" (うぐぅ?) mỗi khi có các cảm xúc kích động khác nhau như thất vọng, đau đớn và sợ hãi. Em họ của Yuichi là Minase Nayuki, cũng là một nhân vật nữ chính, đã có tình cảm với anh ngay từ khi còn bé và cô đang cố gắng học cách đối mặt với tình cảm của mình, đặc biệt là khi Yuichi có nguy cơ yêu một cô gái khác. Nayuki nói chậm hơn so với những người xung quanh và luôn gặp khó khăn mỗi khi cố thức dậy vào buổi sáng, do vậy cứ mỗi khi thấy cô thức dậy sớm hơn cả mình thì Yuichi lại tỏ vẻ sửng sốt và rất ngạc nhiên[1].

Nhân vật nữ chính thứ ba của Kanon đã bắt chuyện với Yuichi vài ngày sau khi anh đến thành phố, Sawatari Makoto, một cô gái bị mất trí nhớ nhưng lại chắc chắn rằng mình có một cảm giác gì đó như có mối thù hằn với Yuichi từ lần cuối anh về thăm nơi đây. Makoto rất tinh nghịch và luôn tìm cách chơi khăm Yuichi; giống như Ayu, từ cửa miệng mỗi khi gặp chuyện khó xử hay bối rối của Makoto là "aū" (あうぅ?). Cô yêu mùa xuân và từng ước muốn nó kéo dài mãi mãi[8]. Yuichi cũng vô tình gặp Misaka Shiori, một nhân vật nữ chính khác, là một học sinh trung học năm thứ nhất luôn bị dằn vặt bởi một căn bệnh lạ từ khi cô sinh ra. Diễn biến căn bệnh khiến cho thể chất của cô ngày càng yếu đi, cô hầu như luôn vắng mặt ở trường cũng chính vì lý do đó. Cô luôn cố gắng trở nên mạnh mẽ để có thể đối mặt với bệnh trạng của mình và kết bạn với mọi người, dù không quen người cùng tuổi với mình vì cơ thể yếu đuối. Nhân vật nữ chính cuối cùng của KanonKawasumi Mai, một học sinh trung học năm thứ ba cùng trường với Yuichi. Cô có thái độ lạnh nhạt với hầu hết mọi người xung quanh, nhưng trên thực tế bên trong cô là người rất tình cảm và luôn quan tâm chăm sóc người khác; Mai sẽ "trừng phạt" bất cứ ai dám trêu cô bằng một đòn đánh karate chớp nhoáng thẳng vào đầu[1].

Cốt truyện

Cốt truyện của Kanon xoay quanh năm cô gái mà cuộc sống của họ có mối liên hệ với cùng một chàng trai. Aizawa Yuichi là học sinh trung học năm thứ hai, anh đã từng lên thành phố chơi khi còn bé, nơi mà cốt truyện của Kanon lấy bối cảnh bảy năm sau đó. Câu chuyện bắt đầu vào thứ tư, ngày 6 tháng 1 năm 1999[1] khi Yuichi trở lại thành phố và vẫn còn bỡ ngỡ với quang cảnh và dân cư ở đây. Trước khi đến đây anh đã quyết định sẽ ở chung với người em họ của mình là Minase Nayuki, cùng mẹ cô bé là Akiko. Sau một thời gian dài, Yuichi đã quên hầu như mọi thứ về thành phố mà anh đã từng ghé thăm và cần được gợi nhớ lại những gì mà anh để lại phía sau khi rời thành phố lần cuối vào bảy năm trước. Nayuki ban đầu cố gắng nhiều lần để phục hồi lại trí nhớ của Yuichi nhưng không thành công. Trong suốt câu chuyện, Yuichi đã nhận ra có rất nhiều thế lực siêu nhiên cùng ở trong thành phố và chúng đã giúp anh phục hồi kí ức về mọi việc xảy ra trong bảy năm trước.

Một ngày sau khi Yuichi trở lại thành phố, Nayuki đã dẫn anh đi tham quan xung quanh. Nayuki chợt nhớ rằng mình cần mua vài thứ để chuẩn bị cho bữa tối, nhưng Yuichi không muốn đi vào khu mua sắm vì anh sợ có thể bị lạc. Đúng lúc Yuichi đang chờ Nayuki trên vỉa hè thì một cô gái kỳ lạ tên là Tsukimiya Ayu xuất hiện đâm vào và đổ lỗi cho anh. Sau khi đứng lên, cô gái ấy lôi anh ta thẳng vào quán cà phê gần đó và tự thú rằng cô đã vô tình "cầm nhầm" bịch taiyaki mà chưa trả tiền do đã chạy trốn vì quá sợ người bán hàng. Yuichi kéo Ayu quay lại xe hàng taiyaki, cả hai xin lỗi người bán hàng về những rắc rối đã gây ra và Ayu được tha thứ. Cả hai quyết định sẽ gặp lại nhau một ngày khác và Ayu đã chạy mất tăm ngay sau đó. Yuichi đã gặp Sawatari Makoto, một cô gái tinh nghịch bị mất trí nhớ, đột nhiên xông ra tấn công anh và ngất xỉu, sau đó cô sống tạm ở nhà của Nayuki. Một cô gái khác có liên hệ với quá khứ của Yuichi là Kawasumi Mai, học sinh trung học năm thứ ba cùng trường với anh. Cô luôn chiến đấu chống lại những con quỷ xuất hiện trong trường vào đêm khuya khi không có ai[9]. Yuichi cũng vô tình gặp một cô gái nữa là Misaka Shiori, cũng là người mà anh có thể trò chuyện một cách "an toàn" trong số năm nhân vật nữ chính của câu truyện. Cô phải chịu đưng một căn bệnh lạ ngay từ khi sinh ra và cũng phải nghỉ học suốt vì nó.

Những việc kì lạ bắt đầu xảy ra tại thành phố này. Makoto thực chất là một con cáo con từng được Yuichi chăm sóc trong lần đến thăm thành phố trước đây, và cô dần dần không còn điều khiển được suy nghĩ cũng như hành động của mình. Mai mang trong người một sức mạnh đặc biệt, có thể làm hồi sinh mọi thứ khi chạm tay vào, những con quỷ xuất hiện trong trường học cũng chính từ đó mà ra. Căn bệnh của Shiori ngày càng nặng hơn và mọi người đều nghĩ cô sẽ khó qua khỏi. Ayu thực tế đã gặp tai nạn khi té xuống từ trên cây ngay trước mắt Yuichi lúc còn bé, chính điều này đã làm anh bị mất trí nhớ do quá sốc. Yuichi nhận ra rằng Ayu mà anh gặp trong phố chỉ là linh hồn của cô, còn thân xác vẫn đang mê man trong bệnh viện suốt 7 năm. Yuichi đã làm đủ mọi cách để hoàn thành lời hứa của anh cũng như tâm nguyện của mỗi nhân vật nữ. Bản mẫu:Hết phần biết trước nội dung

Phát triển

Sau khi rời Tactics, một chi nhánh của công ty Nexton, hầu hết nhân viên đã từng tham gia thực hiện visual novel ONE ~Kagayaku Kisetsu e~[10] đã sáng lập nên công ty Key (thuộc Visual Art's) vào năm 1998. Sản phẩm dự án đầu tiên của Key phát hành bởi Visual Art's chính là Kanon. Kế hoạch thực hiện visual novel này đứng đầu bởi Maeda JunHisaya Naoki, cũng chính là hai nhà biên kịch chính cho toàn bộ cốt truyện của trò chơi[11]. Chỉ đạo nghệ thuật là họa sĩ nổi tiếng của Key, Hinoue Itaru, bà cũng đảm nhiệm khâu thiết kế nhân vật và đồ họa vi tính[11]. Các hình ảnh khác trên máy tính được phân cho ba nhân viên là Din, Miracle Mikipon và Shinory đảm nhiệm; phông nền do Torino thiết kế. Nhạc của visual novel soạn bởi OdiakeSOrito Shinji[1]. Kanon cũng chính là visual novel cuối cùng thực hiện bởi Key có sự tham gia của hai thành viên Hisaya Naoki và OdiakeS trước khi họ tách ra và gia nhập vào các hãng sản xuất khác[12][13]. Game engine chính dùng để thiết kế Kanon là AVG32, một chương trình do Visual Art's tự phát triển và sử dụng để làm nền tảng trợ giúp cho những thương hiệu của họ[14].

Lịch phát hành

Tập tin:Kanon PSP cover.jpg
Bìa phiên bản trên PSP của Kanon.

Kanon được phát hành lần đầu ở Nhật Bản vào ngày 4 tháng 6 năm 1999 chỉ dành cho hệ máy tính cá nhân (PC) dưới dạng CD-ROM[4]. Năm sau nó phát hành thành hai bản riêng biệt: một phiên bản dành cho mọi lứa tuổi trên PC vào ngày 7 tháng 1 năm 2000[4]; và một phiên bản console trên hệ máy Dreamcast vào ngày 14 tháng 9 năm 2000[15]. Phiên bản thứ hai dành cho PlayStation 2 phát hành vào ngày 28 tháng 2 năm 2002, với một hình bìa game đặc trưng khác[16]. Sau khi các bản PS2 đã bán đủ số lượng tiêu chuẩn, hai năm sau đó vào ngày 22 tháng 12 năm 2004, một phiên bản rẻ hơn cho PS2 đã ra mắt, hay còn biết đến với tên "Best Version" được bán với giá chỉ bằng một nửa so với phiên bản đầu trên PS2[17]. "Best Version" trên PS2 sau này được đóng gói trong bộ "Key 3-Part Work Premium Box" cùng với hai bản tương ứng trên PS2 của AIRCLANNAD, phát hành ngày 30 tháng 7 năm 2009[18].

Bản tiêu chuẩn của Kanon (Kanon Standard Edition) ra mắt ngày 26 tháng 11 năm 2006 hỗ trợ thêm khả năng tương thích với Windows 2000/XP của các máy tính có ổ DVD[19]. Chỉ phiên bản này và phiên bản gốc là có chứa những cảnh gợi cảm[4]. Ba tháng sau, vào ngày 28 tháng 1 năm 2005, một phiên bản khác giống như Kanon Standard Edition được phát hành nhưng mọi cảnh hentai đã gỡ bỏ nhằm mục đích dành cho mọi lứa tuổi[4]. Phiên bản dành cho PlayStation Portable (PSP) phát hành tại Nhật Bản vào ngày 15 tháng 2 năm 2007. Bản đầu tiên phát hành trên hệ PSP có đính kèm một DVD với các thông điệp ngắn của năm diễn viên lồng tiếng và tập hợp các đoạn video mở đầu của visual novel Kanon được phát hành từ trước đến nay[2]. Năm diễn viên lồng tiếng trong DVD là: Kōda Mariko lồng tiếng cho Minase Nayuki, Satō Akemi lồng tiếng cho Misaka Shiori, Iizuka Mayumi lồng tiếng cho Sawatari Makoto, Minaguchi Yūko lồng tiếng cho Minase Akiko và Sugita Tomokazu lồng tiếng cho Aizawa Yuichi. Horie Yui lồng tiếng cho Tsukimiya Ayu xuất hiện ở một đoạn ngắn phần đầu của DVD nhưng không còn hiện diện cho đến cuối đĩa. Bản dùng để tải từ trên mạng dùng cho PSP theo PlayStation Store phát hành bởi Prototype vào ngày 9 tháng 10 năm 2009[2].

Các phiên bản trên điện thoại di động FOMASoftBank 3G phát hành bởi Prototype thông qua Visual Art's Motto vào tháng 5 năm 2007[20]. Phiên bản PC gốc của Kanon phát hành mà chưa được lồng tiếng, nhưng những phiên bản sau đó trên các hệ máy như DreamcastPlayStation 2, tất cả các nhân vật điều đã lồng tiếng để khách hành có được cảm nhận tốt hơn. Ngoại lệ duy nhất là Yuichi, vốn không được lồng tiếng trong bất cứ phiên bản nào. Tuy nhiên trong phiên bản trên PSP thì Yuichi đã được lồng tiếng bởi Sugita Tomokazu[21]. Một bản cập nhật tương thích với Windows Vista trên PC được Key phát hành vào ngày 31 tháng 7 năm 2009 trong một hộp chứa năm visual novel khác của hãng này nhân dịp kỉ niệm 10 năm thành lập Key (Key 10th Memorial Box); giống như các bản PC khác, phiên bản này cũng không được lồng tiếng và được phân loại dành cho mọi lứa tuổi[22]. Một bản cập nhật tương thích với Windows 7 gọi là Kanon Memorial Edition đã phát hành ngày 28 tháng 5 năm 2010 cũng được phân loại dành cho mọi lứa tuổi[23].

Các chuyển thể

Tiểu thuyết ánh sáng

Tập tin:少女の檻 Cover.jpg
Bìa của cuốn Girl's Prison tái bản, một trong các tập tiểu thuyết ánh sáng của Kanon.

Năm tiểu thuyết ánh sáng (light novel) dành cho người trên 18 tuổi viết bởi Shimizu Mariko và được xuất bản tại Nhật Bản bởi Paradigm trong khoảng từ tháng 12 năm 1999 đến tháng 8 năm 2000[24][25]. Hình bìa và hình minh họa cho tiểu thuyết ánh sáng do Hinoue Itaru minh họa, bà cũng là họa sĩ của visual novel. Mỗi cuốn tiểu thuyết ánh sáng nói về một nhân vật nữ chính và có tựa dựa theo chủ đề âm nhạc gắn liền với các nhân vật trong visual novel. Hai tập đầu mang tên Girl in the Snow (雪の少女 Yuki no Shōjo?, nói về nhân vật Nayuki)Beyond the Smile (笑顔の向こう側に Egao no Mukougawa ni?, nói về nhân vật Shiori) lần lượt ra mắt trong tháng 10 và tháng 12 năm 1999. Tập thứ ba là Girl's Prison (少女の檻 Shōjo no Ori?, nói về nhân vật Mai) phát hành vào tháng 3 năm 2000 và tập thứ tư có tựa The Fox and the Grapes (nói về nhân vật Makoto) ra mắt hai tháng sau đó. Tập cuối cùng mang tên A Sunny City (日溜りの街 Hidamari no Machi?, nói về nhân vật Ayu) xuất bản vào tháng 8 năm 2000. Paradigm đã tái bản năm cuốn tiểu thuyết ánh sáng này khi hợp tác với Visual Art's thông qua thương hiệu xuất bản VA Bunko, các tập tái bạn bỏ mọi hình ảnh khiêu dâm, bắt đầu với cuốn Girl in the Snow tái bản ngày 27 tháng 6 năm 2009[26] và hoàn tất công việc này với cuốn A Sunny City vào ngày 26 tháng 12 năm 2009. Để bù vào phần nội dung bị lượt bỏ, Shimizu đã viết thêm vào các tình tiết mới cho mỗi tập. Cuốn tiểu thuyết thứ sáu mang tên The Girls' Opinions (彼女たちの見解 Kanojotachi no Kenkai?) nói về nhân vật Kurata Sayuri viết bởi Shimizu và minh họa bởi Zen hiện vẫn chưa được phát hành. Tất cả các tập tiểu thuyết ánh sáng của Kanon đã bán được hơn 500.000 bản tại Nhật Bản[27].

Dưới đây là danh sách các ấn phẩm tiểu thuyết ánh sáng Kanon đã phát hành tại Nhật Bản:

Dành cho người trên 18 tuổi

Tái bản, đã cắt bỏ các cảnh gợi cảm

Các drama CD

Có tất cả ba bộ hộp drama CD dựa trên Kanon với năm đĩa mỗi bộ, tổng cộng là 15 đĩa drama CD. Những đĩa này phát hành đều đặn trong vòng ba năm từ ngày 29 tháng 9 năm 2000 đến ngày 26 tháng 4 năm 2003[28]. Hai bộ hộp đĩa đầu tiên tập trung mô tả câu chuyện của mỗi nhân vật nữ chính trong từng đĩa, hình của từng nhân vật nữ được in lên đĩa nói về nhân vật đó. Bộ hộp đĩa thứ ba không giống như hai bộ đầu, thay vào đó nó giống như là một hợp tuyển các câu chuyện về nhân vật Minase Akiko và hình của nhân vật này cũng được in lên mặt từng đĩa.

Manga

Loạt manga đầu tiên của Kanon đăng trên tạp chí Dengeki Daioh của MediaWorks từ tháng 12 năm 2000 đến tháng 7 năm 2002[29][30]. Các chương riêng lẻ trên tạp chí đã được tập hợp lại thành hai tankōbon và phát hành bởi Dengeki Comics cũng của MediaWorks vào ngày 27 tháng 9 và 27 tháng 7 năm 2002[31][32]. Cốt truyện được viết dựa trên visual novel và minh họa bởi Morishima Petit. Có tổng cộng sáu chương với ba chương cho mỗi tập. Bên cạnh hai chương mở đầu (tập 1) và chương kết thúc (tập 2), bốn chương còn lại tập trung vào bốn nhân vật chính, đó là Misaka Shiori, Sawatari Makoto, Kawasumi Mai và Tsukimiya Ayu. Nhân vật Nayuki cũng xuất hiện nhưng không có chương riêng, cô thường được vẽ cùng với nhân vật Yuichi[33][34]. Loạt manga đầu tiên khác với visual novel ở chỗ nó không nói hết câu chuyện của Shiori, Makoto và Mai. Đoạn kết của visual novel trả lời các câu hỏi cho câu chuyện của từng nhân vật, trong khi đó loạt manga đầu này thì lại để kết thúc mở[33][34]. Điều này có thể là do bộ truyện tập trung khá nhiều vào cốt truyện của nhân vật Ayu.

Loạt manga thứ hai mang tên Kanon: The Real Feelings of the Other Side of the Smiling Face (Kanon ホントの想いは笑顔の向こう側に Kanon Honto no Omoi wa Egao no Mukōgawa ni?) với phụ đề Những nỗi niềm tiếc nuối của Kanon, đã ra mắt từ số thứ hai đến số thứ bảy của tạp chí manga Dragon Age Pure và do Fujimi Shobo phát hành từ ngày 29 tháng 6 năm 2006 đến ngày 20 tháng 10 năm 2007[35][36][37]. Cốt truyện của loạt manga này cũng được viết dựa theo visual novel và minh họa bởi Shimotsuki Kinusa. Tập tankōbon đầu tiên phát hành tại Nhật Bản vào ngày 1 tháng 4 năm 2007, tập trung vào câu chuyện của nhân vật Nayuki[38]. Có năm chương trong tập đầu, bắt đầu với chương một gồm 46 trang, sau đó là hai chương thêm nhỏ hơn gồm 12 trang trong mỗi chương; chương bốn có 40 trang, sau đó là 6 trang của chương kết thúc. Tập tankōbon thứ hai phát hành vào ngày 8 tháng 12 năm 2007, nói về bốn nhân vật nữ chính còn lại[39]. Có bốn chương trong tập này, mỗi chương tập trung vào một nhân vật chưa được nói đến trong tập một bắt đầu với chương của nhân vật Makoto gồm 38 trang, tiếp đó là Mai với 18 trang, Shiori với 20 trang và cuối cùng là Ayu với 48 trang.

Hai loạt manga khác chỉ gồm một tập ở mỗi loạt cũng có nội dung liên quan đến Kanon. Loạt manga đầu tiên do Rei Izumi sáng tác dành cho đối tượng đọc giả chính là shōjo mang tên Kanon & AIR Sky (Kanon & AIRスカイ?) và do Kadokawa Shoten phát hành trong tháng 5 năm 2002. Quyển sách chia làm 12 chương với tổng cộng 140 trang, mỗi chương là từng mẫu truyện ngắn chưa từng xuất hiện trong anime về hai visual novel của Key được sắp xếp xen kẽ[40][41]. Loạt manga thứ hai cũng chứa những mẫu truyện về KanonAIR do Sagiri Suda minh họa mang tên Kanon & AIR Anthology Comics ~Hara Peko~ (Kanon & AIRアンソロジーコミック ~はらぺこ~?), được Enterbrain cho ra mắt vào tháng 8 năm 2003[42].

Ngoài ra còn có rất nhiều bộ hợp tuyển manga khác được sản xuất và minh họa bởi nhiều công ty và họa sĩ khác nhau. Tuyển tập đầu tiên tập hợp những mẫu chuyện được vẽ sớm nhất do Ichijinsha ấn hành với tên Kanon Comic Anthology (Kanonコミックアンソロジー?) vào tháng 11 năm 2000 mang nhãn hiệu DNA Media Comics[43]. Những quyển còn lại trong bộ tiếp tục phát hành đều đặn trong hai năm và kết thúc vào tháng 12 năm 2002 với 14 tập được ra mắt[44]; tập 15 bổ sung thêm phát hành vào tháng 2 năm 2007[45]. Ichijinsha cũng phát hành hai tập của bộ hợp tuyển theo phong cách bốn hình một trang với tựa đề Kanon 4-koma Kings (Kanon4コマKINGS?) từ tháng 4 đến tháng 6 năm 2001[46]. Bộ truyện tập hợp thứ hai phát hành bởi Softgarage vào tháng 12 năm 2002 chỉ có một tập, với tựa đề Kanon Anthology Comic (Kanon・アンソロジーコミック?)[47]. Ngày 17 tháng 4 năm 2004, Ohzora cho ra mắt một tuyển tập dựa trên KanonAIR với nhan đề Haru Urara: Kanon & Air (春うらら ~Kanon&AIR~傑作選?)[48]. Khoảng giữa tháng sáu và tháng 8 năm 2004, Ohzora tiếp tục phát hành bốn tập manga được vẽ bởi năm họa sĩ khác nhau[49][50]. Ohzora sau đó tổng hợp lại một số truyện trong các tuyển tập manga trước đây và phát hành thành hai bộ hợp tuyển mang tên Kanon Anthology Comics Best Selection (Kanonアンソロジーコミックス ベストセレクション?) vào tháng 12 năm 2006 và tháng 1 năm 2007[51][52]. Ohzora vẫn còn phát hành thêm 13 tuyển tập khác với tên Kanon mang nhãn hiệu Twin Heart Comics. Một công ty hiện nay đã phá sản là Raporto đã phát hành 21 tuyển tập về Kanon mang nhãn hiệu Raporto Comics từ tháng 11 năm 2000 đến tháng 10 năm 2002[53][54]. Tuyển tập manga cuối cùng của Kanon là một bộ sưu tập các mẫu truyện theo phong cách 4 hình một trang đã xuất bản chỉ với một tập duy nhất bởi Enterbrain có nhan đề Magi-Cu 4-koma Kanon (マジキュー4コマ Kanon?) vào tháng 1 năm 2007 mang nhãn hiệu MC Comics[55]. Mỗi bộ truyện tập hợp này được viết và vẽ bởi rất nhiều người khác nhau trung bình là khoảng 20 người tham gia thực hiện mỗi tập[48].

Các tập manga

Dưới đây là danh sách các ấn phẩm manga Kanon xuất bản tại Nhật:

Kanon Comic Anthology

Kanon 4-koma Kings

Kanon Anthology Comic

Haru Urara: Kanon & Air

Kanon của Ohzora

Kanon Anthology Comics Best Selection

Magi-Cu 4-koma Kanon

Kanon

Kanon Honto no Omoi wa Egao no Mukōgawa ni

Kanon & AIR Sky

Kanon & AIR Anthology Comics ~Hara Peko~

Kanon của Raporto

Các bộ anime

Tập tin:Kanon Complete Series Box cover.jpg
Bìa bộ hộp DVD tổng hợp bộ anime thứ hai của Kanon.

Bộ anime Kanon đầu tiên được thực hiện bởi Toei Animation và do Ito Takamichi làm đạo diễn[56]. Tổng cộng 13 tập[57] đã được phát sóng tại Nhật Bản từ ngày 31 tháng 1 đến ngày 28 tháng 3 năm 2002[58]. Sau đó một tập OVA có tựa đề là "Kanon Kazahana" đã phát hành vào tháng 3 năm 2003[59]. Bộ anime cùng tập OVA đã dùng hai bài hát "Florescence" và "Flower" làm bài hát chủ đề mở đầu cũng như kết thúc mỗi tập. Ca khúc "Kaze no Tadoritsuku Basho" không được sử dụng như bài hát chủ đề kết thúc trong 12 tập đầu của bộ anime, nhưng nó đã được dùng ở tập 13, trở thành bài hát kết thúc 13 tập của loạt phim[60]. Ngoài ra ca khúc chủ đề "Last regrets" dùng cho mở đầu của visual novel cũng được sử dụng ở tập 13 trong một đoạn hồi tưởng[60].

Kyoto Animation, hãng đã thực hiện chuyển thể bộ anime dựa theo một visual novel khác của công ty KeyAIR, đã quyết định làm lại một bộ anime Kanon mới vào đầu năm 2006. Bộ anime do Ishihara Tatsuya làm đạo diễn[61] và đã phát sóng tại Nhật Bản từ ngày 5 tháng 10 năm 2006 đến ngày 15 tháng 3 năm 2007 trên kênh BS-i với tổng cộng 24 tập[62]. ADV Films đã công bố vào ngày 21 tháng 9 năm 2007 tại hội nghị Anime Weekend Atlanta, rằng họ đã được cấp bản quyền phát hành bộ anime Kanon thứ hai ở Bắc Mỹ[63]. ADV Films cũng đã đăng một trailer cho loạt phim để quảng cáo vào tháng 8 năm 2007, nhưng họ đã tháo xuống sau khi nó lan ra khắp internet[64]. Các tập lồng tiếng Anh đầu tiên đã cho chiếu giới thiệu trực tuyến trên internet ở trang web Anime News Network từ ngày 23 tháng 12 đến ngày 30 tháng 12 năm 2007[65]. Vào tháng 7 năm 2008, bản quyền phát hành phiên bản tiếng Anh của bộ anime Kanon thứ hai đã chuyển nhượng sang Funimation Entertainment, hãng này tiếp tục phát hành loạt phim tại thị trường Bắc Mỹ[66].

Bộ anime Kanon thứ hai có dàn diễn viên lồng tiếng (seiyū) giống như bộ anime thứ nhất từng thực hiện vào năm 2002, chỉ ngoại trừ nhân vật Yuichi và Kuze. Loạt phim này dài hơn bộ đầu tiên (với 24 tập, còn bộ đầu chỉ có 13 tập) cũng như chất lượng hình ảnh được nâng cao. Không giống như bộ anime đầu, bộ anime thứ hai sử dụng các bài nhạc trong visual novel để làm ca khúc chủ đề mở đầu - kết thúc, cũng như làm nhạc nền. Chỉ có một bài hát ở tập 16 không phải là bài nhạc trong visual novel, nó mang tên "Last regrets -X'mas floor style-" do Shimamiya Eiko trình bày trong album đầu tiên của I've Sound: Regret. Những bài nhạc khác cũng được đặt vào các album phát hành trong những năm sau đó như Anemoscope, Recollections, Re-feelMa-Na.

Lồng tiếng

Dưới đây là danh sách seiyū lồng tiếng cho một số nhân vật quan trọng trong hai bộ anime Kanon[67][68]:

Nhân vật Diễn viên
Tsukimiya Ayu Horie Yui
Aizawa Yuichi Kisaichi Atsushi (2002)
Sugita Tomokazu (2006)
Minase Nayuki Kōda Mariko
Misaka Shiori Satō Akemi
Sawatari Makoto Iizuka Mayumi
Kawasumi Mai Tamura Yukari
Minase Akiko Minaguchi Yuko
Kurata Sayuri Kawakami Tomoko
Misaka Kaori Kawasumi Ayako
Amano Mishio Sakamoto Maaya
Kitagawa Jun Seki Tomokazu

Âm nhạc

Visual novel Kanon có hai bài hát chủ đề: ca khúc mở đầu là "Last regrets" và ca khúc kết thúc là "Kaze no Tadoritsuku Basho" (風の辿り着く場所?), tất cả đều được trình bày bởi Ayana. Lời bài hát được soạn bởi Maeda Jun[69] và sắp xếp bởi Kazuya Takase của nhóm I've Sound. Năm bản nhạc chủ đạo, hay nhạc nền, dành cho năm nhân vật nữ chính gồm: bài của Ayu là "Hidamari no Machi" (日溜りの街?), bài của Nayuki là "Yuki no Shōjo" (雪の少女?), bài của Makoto là "The Fox and the Grapes", bài của Shiori là "Egao no Mukōgawa ni" (笑顔の向こう側に?), cuối cùng là bài của Mai có tựa đề "Shōjo no Ori" (少女の檻?)[70].

Album đầu tiên, Anemoscope, đính kèm với phiên bản gốc của Kanon phát hành trong tháng 6 năm 1999[69]. Một đĩa đơn phát hành sau đó lấy tên Last regrets/Kaze no Tadoritsuku Basho có chứa hai ca khúc chủ đề mở đầu - kết thúc cộng thêm ba bài nhạc nền được biến tấu, cùng bản nam ca bài hát mở đầu[69]. Album tổng hợp có chứa các bài hát của hai album đầu phát hành vào tháng 12 năm 2001 mang tên Recollections[71]. Soundtrack gốc của trò chơi phát hành trong tháng 10 năm 2002 có chứa 22 ca khúc khác nhau cùng các phiên bản ngắn của hai bài hát chủ đề[71]. Một album hòa tấu piano ra mắt trong tháng 12 năm 2003 mang tên Re-feel bao gồm năm ca khúc trong Kanon và năm ca khúc trong AIR[71]. Ngoại trừ hai album đầu tiên, mỗi album trên khi bán ra thị trường đều gắn nhãn Key Sounds Label, hãng thu âm của Key; lý do là vì hai album đó được phát hành trước khi hãng thu âm này thành lập[71].

Đĩa tập hợp các ca khúc gốc trong anime phát hành vào tháng 5 năm 2002[72]; và đĩa thứ hai phát hành tiếp sau đó vào tháng 7 năm 2002[73]. Hai bài hát chủ đề mở đầu và kết thúc của bộ anime đầu tiên là "Florescence" và "Flower", tất cả đều được trình bày bởi Fujiwara Miho, maxi single chứa hai bài nhạc này phát hành vào tháng 6 năm 2002[74]. Album chứa tất cả các bản nhạc của Kanon hòa tấu bằng hộp nhạc ra mắt trong tháng 7 năm 2003 với tên Orgel de Kiku Sakuhin Shū[75]. Các album dành cho bộ anime Kanon đầu tiên phát hành bởi Frontier WorksMovic. Một đĩa đơn phát hành vào dịp kỷ niệm bộ anime thứ hai mang tên Last regrets/Kaze no Tadoritsuku Basho có chứa các bản nhạc của hai ca khúc chủ đề mở đầu và kết thúc được thể hiện theo nhiều cách khác nhau, như bản gốc, ngắn và remix, cũng do Key Sounds Label sản xuất[71].

Đón nhận

Đánh giá

Đặc điểm của Kanon là sử dụng những điều bình thường để mô tả những việc không bình thường, sự kết hợp một cách hài hòa yếu tố trong cốt truyện làm cho người chơi bị quyến rũ. Cốt truyện được viết mỗi lúc một căng thẳng cùng với việc dàn dựng các tình huống kịch tính dễ dàng đánh vào tâm lý người chơi khiến cho họ phải trăn trở vì những việc tốt đẹp thường kết thúc quá sớm[76]. Các nhân vật được thiết kế với các tính cách và hành vi khác nhau làm tăng chiều sâu của cốt truyện và cũng làm cho giá trị chơi lại tăng lên[77][78][76]. Kanon, được ví như một làn sóng chấn động, là một bước ngoặt lớn của bishōjo game, trái với các tựa game trước luôn chú trọng đến những cảnh quan hệ tình dục, trò chơi này đã giúp người chơi tập trung nhiều hơn vào việc tận hưởng âm nhạc và kịch bản, đồng thời "có được những trải nghiệm mới về một tình cảm trong sáng và sự đau khổ đến nghẹn ngào"[79].

Do trò chơi này thực hiện trong thời điểm các công ty phần mềm Nhật Bản không ưa sử dụng công nghệ đồ họa của phương Tây, thêm vào đó các kỹ thuật đồ họa hoàn toàn tạo ra tại Nhật Bản cũng không nhiều; vậy nên khi so sánh với những visual novel đời mới như Da Capo, các nhà phê bình không thể chê bai những hình ảnh của Kanon. Khuyết điểm duy nhất của phiên bản gốc Kanon là không lồng tiếng, bắt buộc người chơi phải đọc để hiểu cốt truyện đang đi đến đâu. Nhưng tổng hợp lại thì Kanon là một trong những trò chơi hay nhất của thể loại này vào lúc nó được phát hành trong năm 1999[80][76][81].

Bộ anime thứ hai của Kanon đã được đánh giá trên Anime News Network bởi nhà phê bình Theron Martin, ông nhận định bộ anime này là "một sự tập hợp nhân vật theo phong cách moe", và tại sao phong cách moe (dễ thương) sử dụng trong bộ anime này lại "có cảm giác như họ đang chìm trong cái hồ của vẻ đáng yêu ướt át". Loạt phim được so sánh với như anime AIR bằng câu «Giống như AIR bốn tập đầu chỉ đơn giản là nhân vật nam chính lên thành phố và bắt đầu giết thời gian bằng việc giao tiếp với các cô gái dễ thương. Không như AIR ở chỗ việc giao tiếp đôi khi rất buồn cười»[82]. Martin cũng so sánh Kanon với với một bộ anime chuyển thể khác là Shuffle! như thể đang "dội bom" vào Kanon. Ông cũng nhận xét về các nhân vật như sau: «Các nhận vật rất dễ thương với người xem... tốt hơn nhiều so với Shuffle!». Martin còn trích dẫn việc chuyển tiếp giữa những khoảnh khắc hài hước và nghiêm túc như một đặc diểm của câu chuyện[83]. Tuy nhiên, Martin cũng chỉ ra một trong những sai sót của bộ anime, là vì nó "sử dụng hai con bài là sự trong sáng và phong cách moe cùng một lúc", khiến cho cốt truyện bị tác động ít nhiều. Nhân vật Yuichi được mô tả là "Có tính cách quá thất thường để có thể tin cậy" hay quá dễ tin[84]. Mặc dù có những thiếu sót như vậy, Martin vẫn đánh giá loạt phim là "một trong những bộ anime sử dụng phong cách moe tốt nhất thời đó", cũng như ca ngợi Kyoto Animation đã làm cho bộ anime Kanon trở nên đẹp hơn với câu «Là một trong những bộ anime nhìn đẹp nhất của năm đã qua». Martin còn thêm một đoạn so sánh Kanon"đối cực của Gurren Lagann", loạt anime chỉ tập trung vào những cảnh hành động trong suốt cốt truyện của nó[85].

Doanh số

Theo bảng xếp hạng doanh số các bishōjo game trên toàn quốc tại Nhật Bản, phiên bản gốc của Kanon trên hệ máy PC đã xếp vị trí thứ 2 ngay trong lần phát hành đầu tiên[86]. Với tổng cộng 39.683 bản được bán thành công, Kanon đã nằm trong danh sách các game bán chạy nhất năm 1999[87]. Ba năm sau vào tháng 6 năm 2002, phiên bản gốc xếp hạng một lần nữa với trị trí thứ 45 rồi rớt xuống hạng 46 hai tuần sau đó[86]. Trong lần xuất hiện cuối cùng vào đầu tháng 7 năm 2002, phiên bản này tăng hạng trở lại với trị thứ 41[88]. Phiên bản tiêu chuẩn (Kanon Standard Edition) xếp hạng thứ 16 trong lần đầu ra mắt[89]. Kanon Standard Edition vẫn còn tiếp tục đứng trong tốp 50 game bán chạy nhất suốt hai tháng sau, nó lần lượt chiếm các vị trí 47 và 35[90]. Bản mọi lứa tuổi của Kanon Standard Edition đứng ở vị trí thứ 42 trên toàn quốc, nhưng đã tăng lên hạng thứ 35 trong tháng kế tiếp, đó cũng là lần xuất hiện cuối cùng của nó trong các bảng xếp hạng[91]. Phiên bản chơi trên hệ máy Dreamcast bán được 42.379 ngay trong tuần đầu tiên phát hành, và là trò chơi console bán chạy thứ tư trong tuần đó ở Nhật Bản[92] Chốt lại, Kanon đã bán được hơn 300.000 bản trên nhiều hệ máy khác nhau, chưa tính đến các bản trên hệ máy PSP[21].

Phiên bản đầu tiên cho hệ PS2 năm 2002 được công bố tại Nhật Bản trên tạp chí về game là Famitsu, tạp chí này đã cho nó số điểm tổng cộng là 29/40 (với bốn tiêu chí được chọn để đánh giá một game là 7, 8, 7 và 8)[93]). Suzumoto Yūichi nhận xét trong cuộc phỏng vấn vào tháng 3 năm 2001, rằng ông có thể tóm tắt ngắn gọn kết thúc của Kanon như sau: "Hoàng tử và công chúa sống hạnh phúc mãi về sau. Hết", dẫn đến một đoạn kết mà không hé mở thêm bất cứ chuyện gì có thể xảy ra sau đó[3]. Vào tháng 10 năm 2007, Dengeki G's Magazine tổ chức một cuộc thăm dò ý kiến về tốp 50 bishōjo game từng phát hành, Kanon xếp thứ 5 với 71 phiếu bầu trong tổng số 249 tựa game được đề cử[94].

Ảnh hưởng

Tập tin:Kanon Itasha.jpg
Một chiếc xe đua Itasha theo chủ đề Kanon

Maeda Jun đã tuyên bố vào tháng 3 năm 2001 rằng Kanon là một thành công lớn, nó đã thúc đẩy ông tiếp tục sáng tác cũng như công ty Key có thêm động lực để phát triển các sản phẩm sau này. Hơn nữa, Maeda còn nói thêm rằng không chỉ mình ông mới có suy nghĩ này. Chính nó đã giúp Key tự tin thực hiện hai siêu phẩm tiếp theo là AIRCLANNAD[3]. Nhà biên kịch Suzumoto Yūichi nói rằng tác phẩm Kanon phát hành năm 1999 đã gây ấn tượng với ông và là nguồn động lực để ông xin gia nhập vào Visual Art's (công ty mẹ của Key), cũng như trở thành người viết kịch bản của công ty từ tháng 2 năm 2002[95].

Các nhân viên của Key từng tham gia thực hiện ONE ~Kagayaku Kisetsu e~ và kế đến là Kanon đã hình thành nên tên gọi cho một khái niệm mới là "crying game" (một nhánh của bishōjo game, có khả năng khiến người chơi khóc thương cho số phận của các nhân vật), sau đó lần lượt có các tựa game khác tương tự cũng áp dụng, điển hình là To Heart của Leaf. Sự thành công của ONEKanon đã củng cố tên gọi này, dần dần biến nó thành khái niệm cơ bản cũng như bắt đầu được sử dụng bởi các công ty khác khi phân loại cho các tựa game của mình như D.O. với trò chơi Kana – Imōto, KID với Memories Off, Circus với Da Capo, Studio Mebius với SnowMinori với Wind – a breath of heart; nó đã giúp tạo ra thể loại Nakigē (泣きゲー?) và phát triển thành một hướng đi mới cho các visual novel sau này[96][97].

Những nhân vật trong Kanon cũng xuất hiện trong một vài trò chơi dōjin không liên quan đến tác phẩm này. Chẳng hạn như trò Eternal Fighter Zero -Blue Sky Edition- của hãng Twilight Frontier lấy hầu hết các nhân vật xuất hiện trong Kanon và cả tác phẩm trước đó của Key là ONE[98]. Trò Glove on Fight có ít nhất hai nhân vật từ Kanon là Tsukimiya Ayu và Minase Akiko trong tư thế sẵn sàng chiến đấu (vì đây là game đối kháng) với các nhân vật trong các tác phẩm khác[99]. Nhân vật Tsukimiya Ayu đặc biệt còn xuất hiện trong các không gian khác ngoài Kanon, chẳng hạn như tại trang thứ 67 của webcomic Megatokyo, có thể nhìn thấy cô đang ăn taiyaki trong một góc tranh nhỏ[100].

Trở thành thương hiệu

Do sự nổi tiếng của Kanon, đặc biệt là sau khi chuyển thể anime thứ hai ra mắt năm 2006, nhiều vật dụng được sản xuất đã in biểu trưng của của tác phẩm như cốc cà phê, thẻ thanh toán, áp phích cũng như các bức tượng nhỏ và artbook có hình các nhân vật.

Năm ngày trước khi Kanon xuất hiện trên hệ máy PS2, một máy in PlayStation 2 mang tên Tapis MPR-505 đã được tung ra thị trường, nó có thể in bất cứ hình ảnh nào từ màn hình chơi game. Kanon là một trong ba trò chơi khánh thành chiếc máy này, hai game khác là America Ōden Ultra Quiz của DigiCubeMarle de Jigsaw của Nippon Ichi Software[101].

Năm 2007 nhiều bức tượng nhỏ mang hình dáng Ayu trong các tư thế khác nhau đã được sản xuất. Phiên bản chibi của cô mặc bộ đồ giáng sinh ra mắt ngày ngày 29 tháng 1 năm 2007 bởi Movic[102]. Một số khác được sản xuất bởi Russian Blue, Kotobukiya và Max Factory[103][104][105]. Các nhân vật khác của Kanon cũng được sản xuất bởi nhiều hãng khác nhau, kể cả nhân vật nam chính.

Những quyển artbook bắt đầu được phát hành từ tháng 11 năm 2000 bởi Enterbrain. Cuốn đầu tiên có tên Kanon: Kōshiki Genga Settei Shiryōshū – The Ultimate Art Collection of “Kanon” (Kanon: 公式 原画・設定資料集 – The Ultimate Art Collection of "Kanon"? ISBN 4757702442) gồm 239 trang có chứa nhiều hình ảnh minh họa và hình phát thảo các ý tưởng, cùng các bài bình luận về cảnh vật hay hành động của các nhận vật trong nhiều bối cảnh khác nhau[106]. Ngày 20 tháng 6 năm 2002, một artbook khác giới thiệu cho bộ anime đầu với tên Kanon the animation – Dream Days (ISBN 4-04-853522-6) được phát hành bởi Kadokawa Shoten. Nó cung cấp nhiều bài giới thiệu về các nhân vật, hình ảnh minh họa cùng các bài phỏng vấn những người đã tham gia sản xuất anime[107]. Ichijinsha đã phát hành một artbook dày 127 trang có tên Kanon Visual memories (ISBN 4-7580-1079-X) vào ngày 25 tháng 7 năm 2007. Cuốn này tập trung vào bộ anime làm lại của Kanon vào năm 2006 và so sánh với những gì mà Kadokawa Shoten đã viết với bộ anime đầu tiên. Nó đính kèm với một đĩa CD âm thanh có 86 cách phát âm từ "ugū" của Ayu, thực hiện bởi diễn viên lồng tiếng Horie Yui. Mỗi từ "ugū" chỉ phát ra hai giây rồi sau đó tạm ngưng trước khi tiếp tục[108].

Chú thích

  1. ^ a b c d e f g h i j k l m Kanon Visual Fan Book. Enterbrain. Tháng 6 năm 2000. ISBN 978-4-7577-0039-0.
  2. ^ a b c “PROTOTYPE Kanon (bằng tiếng tiếng Nhật). Prototype. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2007.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  3. ^ a b c d e “カラフル・ピュアガール 2001年3月号 Keyシナリオスタッフ ロングインタビュー” (bằng tiếng tiếng Nhật). Colorful Pure Girl. Tháng 3 năm 2001. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 3 năm 2003. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2008. Đã bỏ qua tham số không rõ |trans_title= (gợi ý |trans-title=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  4. ^ a b c d e f “Kanon Key Official HomePage” (bằng tiếng tiếng Nhật). Key. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2007.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  5. ^ Câu thoại gốc: 起きないから、奇跡って言うんですよ
    Dịch tiếng Anh: "It's called a miracle because it doesn't happen."
  6. ^ Câu thoại gốc: 約束、だよ
    Dịch tiếng Anh: "It's a promise."
  7. ^ Nakagami Yoshikatsu; Ikeda Kazumi; Takeda Akiyo; Miyata Kana; Unoguchi Joh (2007). “Kanon”. Newtype USA (bằng tiếng tiếng Anh). Houston, TX: A.D. Vision. 6 (1): 62–63. ISSN 1541-4817. Đã bỏ qua tham số không rõ |month= (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  8. ^ Câu thoại gốc: 春がきて・・・ずっと春だったらいいのに
    Dịch tiếng Anh: "If only spring would come and stay forever."
  9. ^ Câu thoại gốc: 私は魔物を討つ者だから
    Dịch tiếng Anh: "I'm a demon hunter."
  10. ^ “ONE ~輝く季節へ~ ErogameScape-エロゲー批評空間-” (bằng tiếng tiếng Nhật). ErogameScape. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2009. Đã bỏ qua tham số không rõ |trans_title= (gợi ý |trans-title=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  11. ^ a b Kanon ErogameScape-エロゲー批評空間-” (bằng tiếng tiếng Nhật). Erogamescape. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2007. Đã bỏ qua tham số không rõ |trans_title= (gợi ý |trans-title=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  12. ^ “久弥直樹 関わったゲーム一覧 -ErogameScape-エロゲー批評空間-” (bằng tiếng tiếng Nhật). ErogameScape. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2009. Đã bỏ qua tham số không rõ |trans_title= (gợi ý |trans-title=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  13. ^ “OdiakeS 関わったゲーム一覧 -ErogameScape-エロゲー批評空間-” (bằng tiếng tiếng Nhật). ErogameScape. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2009. Đã bỏ qua tham số không rõ |trans_title= (gợi ý |trans-title=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  14. ^ “AVG32 developer by Visual Art's” (bằng tiếng tiếng Anh). Visual Novel Engine Formats Page. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2010.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  15. ^ “Kanon カノン” (bằng tiếng tiếng Nhật). Amazon.co.jp. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2009. Đã bỏ qua tham số không rõ |trans_title= (gợi ý |trans-title=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  16. ^ “インターチャネル Kanon(ベスト版)” (bằng tiếng tiếng Nhật). Interchannel. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 1 năm 2007. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2010. Đã bỏ qua tham số không rõ |trans_title= (gợi ý |trans-title=) (trợ giúp); Chú thích có tham số trống không rõ: |1= (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  17. ^ Kanon (bằng tiếng tiếng Nhật). GunHo Works. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2008.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  18. ^ “key3部作プレミアムBOX” (bằng tiếng tiếng Nhật). GungHo Works. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2009. Đã bỏ qua tham số không rõ |trans_title= (gợi ý |trans-title=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  19. ^ “最速VisualAntena! (最速ビジュアルアンテナ) Kanon Standard Edition (bằng tiếng tiếng Nhật). Visual Art's. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2009. Đã bỏ qua tham số không rõ |trans_title= (gợi ý |trans-title=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  20. ^ “ビジュアルアーツ☆Motto” (bằng tiếng tiếng Nhật). Visual Art's Motto. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2008. Đã bỏ qua tham số không rõ |trans_title= (gợi ý |trans-title=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  21. ^ a b Kanon 深い雪に覆われた街で語られる、小さな奇跡の物語” (bằng tiếng tiếng Nhật). Sega. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2007. Đã bỏ qua tham số không rõ |trans_title= (gợi ý |trans-title=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  22. ^ “Key 10th MEMORIAL BOX” (bằng tiếng Japanese). Key. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2009.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  23. ^ “Keyの過去五作品がメモリアルエディションで発売です!” (bằng tiếng tiếng Nhật). Key. 7 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2010. Đã bỏ qua tham số không rõ |trans_title= (gợi ý |trans-title=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  24. ^ “Kanon~少女の檻~” (bằng tiếng tiếng Nhật). Amazon.co.jp. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2009. Đã bỏ qua tham số không rõ |trans_title= (gợi ý |trans-title=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  25. ^ “Kanon―日溜まりの街” (bằng tiếng tiếng Nhật). Amazon.co.jp. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2009. Đã bỏ qua tham số không rõ |trans_title= (gợi ý |trans-title=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  26. ^ “Kanon雪の少女” (bằng tiếng tiếng Nhật). Amazon.co.jp. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2009. Đã bỏ qua tham số không rõ |trans_title= (gợi ý |trans-title=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  27. ^ “累計50万部の大ヒットノベライズ 「Kanon」シリーズ VA文庫より刊行開始!” (bằng tiếng tiếng Nhật). Paradigm. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2009. Đã bỏ qua tham số không rõ |trans_title= (gợi ý |trans-title=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  28. ^ Kanon (bằng tiếng tiếng Nhật). CD Japan. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2007.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  29. ^ (tiếng Nhật)Dengeki Daioh (MediaWorks) (Tháng 12 năm 2000). 
  30. ^ (tiếng Nhật)Dengeki Daioh (MediaWorks) (Tháng 7 năm 2002). 
  31. ^ “Kanon 1 (電撃コミックス) (コミック)” (bằng tiếng tiếng Nhật). Amazon.co.jp. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2009. Đã bỏ qua tham số không rõ |trans_title= (gợi ý |trans-title=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  32. ^ “Kanon 2 (電撃コミックス) (コミック)” (bằng tiếng tiếng Nhật). Amazon.co.jp. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2009. Đã bỏ qua tham số không rõ |trans_title= (gợi ý |trans-title=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  33. ^ a b Morishima, Petit. Kanon manga (bằng tiếng tiếng Nhật). 1. MediaWorks. ISBN 978-4840216784. |ngày truy cập= cần |url= (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  34. ^ a b Morishima, Petit. Kanon manga (bằng tiếng tiếng Nhật). 2. MediaWorks. ISBN 978-4840221306. |ngày truy cập= cần |url= (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  35. ^ “大人気ゲーム「Kanon」をコミカライズ!!” (bằng tiếng tiếng Nhật). Fujimi Shobo. 30 tháng 6 năm 2006. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2007. Đã bỏ qua tham số không rõ |trans_title= (gợi ý |trans-title=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  36. ^ Dragon Age Pure (bằng tiếng tiếng Nhật). Fujimi Shobo. 2. |title= trống hay bị thiếu (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  37. ^ Dragon Age Pure (bằng tiếng tiếng Nhật). Fujimi Shobo. 7. |title= trống hay bị thiếu (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  38. ^ “Kanon ホントの想いは笑顔の向こう側に1” (bằng tiếng tiếng Nhật). Kadokawa Shoten. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2007. Đã bỏ qua tham số không rõ |trans_title= (gợi ý |trans-title=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  39. ^ “Kanon ホントの想いは笑顔の向こう側に2” (bằng tiếng tiếng Nhật). Kadokawa Shoten. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2007. Đã bỏ qua tham số không rõ |trans_title= (gợi ý |trans-title=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  40. ^ “Kanon & Air Sky” (bằng tiếng tiếng Anh). Mangaupdates.com. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2010.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  41. ^ “Kanon & AIRスカイ (角川コミックス)” (bằng tiếng tiếng Nhật). Amazon.co.jp. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2010.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  42. ^ “Kanon & AIRスカイ (角川コミックス)” (bằng tiếng tiếng Nhật). Amazon.co.jp. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2010.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  43. ^ “Kanonコミックアンソロジー (DNAメディアコミックス) (コミック)” (bằng tiếng tiếng Nhật). Amazon.co.jp. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2009. Đã bỏ qua tham số không rõ |trans_title= (gợi ý |trans-title=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  44. ^ “Kanonコミックアンソロジー 14 (DNAメディアコミックス) (コミック)” (bằng tiếng tiếng Nhật). Amazon.co.jp. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2009. Đã bỏ qua tham số không rõ |trans_title= (gợi ý |trans-title=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  45. ^ “Kanonコミックアンソロジー 15 (DNAメディアコミックス) (コミック)” (bằng tiếng tiếng Nhật). Amazon.co.jp. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2009. Đã bỏ qua tham số không rõ |trans_title= (gợi ý |trans-title=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  46. ^ “Kanon4コマKINGS (DNAメディアコミックス)” (bằng tiếng tiếng Nhật). Amazon.co.jp. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2010.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  47. ^ “Kanon・アンソロジーコミック (Sofgare comics) (コミック)” (bằng tiếng tiếng Nhật). Amazon.co.jp. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2009. Đã bỏ qua tham số không rõ |trans_title= (gợi ý |trans-title=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  48. ^ a b “春うらら ~Kanon&AIR~傑作選” (bằng tiếng tiếng Nhật). Ohzora. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2008. Đã bỏ qua tham số không rõ |trans_title= (gợi ý |trans-title=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  49. ^ “Kanon Remix (かのん れみっくす)” (bằng tiếng tiếng Nhật). Ohzora. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2009. Đã bỏ qua tham số không rõ |trans_title= (gợi ý |trans-title=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  50. ^ “キミと出会えたこの場所 ~Kanon傑作選~” (bằng tiếng tiếng Nhật). Ohzora. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2009. Đã bỏ qua tham số không rõ |trans_title= (gợi ý |trans-title=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  51. ^ “Kanonアンソロジーコミックス ベストセレクション1” (bằng tiếng tiếng Nhật). Ohzora. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2009. Đã bỏ qua tham số không rõ |trans_title= (gợi ý |trans-title=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  52. ^ “Kanonアンソロジーコミックス ベストセレクション2” (bằng tiếng tiếng Nhật). Ohzora. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2009. Đã bỏ qua tham số không rõ |trans_title= (gợi ý |trans-title=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  53. ^ “Kanon 1 (ラポートコミックス) (コミック)” (bằng tiếng tiếng Nhật). Amazon.co.jp. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2009. Đã bỏ qua tham số không rõ |trans_title= (gợi ý |trans-title=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  54. ^ “Kanon 21 (ラポートコミックス) (コミック)” (bằng tiếng tiếng Nhật). Amazon.co.jp. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2009. Đã bỏ qua tham số không rõ |trans_title= (gợi ý |trans-title=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  55. ^ “マジキュー4コマ Kanon (マジキューコミックス) (コミック)” (bằng tiếng tiếng Nhật). Amazon.co.jp. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2009. Đã bỏ qua tham số không rõ |trans_title= (gợi ý |trans-title=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  56. ^ “東映アニメーション” (bằng tiếng tiếng Nhật). Toei Animation. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2009. Đã bỏ qua tham số không rõ |trans_title= (gợi ý |trans-title=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  57. ^ “First Kanon anime official episode listing” (bằng tiếng tiếng Nhật). Toei Animation. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2009.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  58. ^ “カノン - TOEI ANIMATION” (bằng tiếng tiếng Nhật). Toei Animation. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2009. Đã bỏ qua tham số không rõ |trans_title= (gợi ý |trans-title=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  59. ^ “TVアニメーション『Kanon』DVD・CDキャンペーン プレゼントAコース用 特典映像『風花』” (bằng tiếng tiếng Nhật). Animate. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 12 năm 2002. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2009. Đã bỏ qua tham số không rõ |trans_title= (gợi ý |trans-title=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  60. ^ a b “Where the Wind Leads”. Kanon (2002) - Toei Animation. Đã bỏ qua tham số không rõ |episodelink= (trợ giúp)
  61. ^ “TVアニメ「Kanon」公式HP” (bằng tiếng tiếng Nhật). TBS. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2009. Đã bỏ qua tham số không rõ |trans_title= (gợi ý |trans-title=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  62. ^ “TVアニメ「Kanon」公式HP” (bằng tiếng tiếng Nhật). TBS. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2009. Đã bỏ qua tham số không rõ |trans_title= (gợi ý |trans-title=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  63. ^ “ADV's Acquisition of 2nd Kanon Series Confirmed at AWA”. Anime News Network. 22 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2007.
  64. ^ “ADV Films Posts Trailers for Second Kanon TV Series (Updated)” (bằng tiếng tiếng Anh). Anime News Network. 8 tháng 8 năm 2007. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2007.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  65. ^ Kanon - Episode 1 Preview - 2 Days Left” (bằng tiếng tiếng Anh). Anime News Network. 28 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2007.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  66. ^ “Funimation Picks Up Over 30 Former AD Vision Titles” (bằng tiếng tiếng Anh). Anime News Network. 4 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2008.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  67. ^ “Kanon (TV 1/2002) - Japanese cast” (bằng tiếng tiếng Anh). Anime News Network. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2010.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  68. ^ “Kanon (TV 2/2006) - Japanese cast” (bằng tiếng tiếng Anh). Anime News Network. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2010.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  69. ^ a b c “Key Sounds Label albums with contributions by Jun Maeda” (bằng tiếng tiếng Nhật). Respect Maeda. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2008.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  70. ^ Kanon Original Soundtrack booklet transcribed online” (bằng tiếng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2008.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  71. ^ a b c d e “Key Sounds Label's discography” (bằng tiếng tiếng Nhật). Key Sounds Label. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2008.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  72. ^ “TVシリーズ Kanon~カノン~サウンドトラック 第1巻” (bằng tiếng tiếng Nhật). Amazon.co.jp. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2009. Đã bỏ qua tham số không rõ |trans_title= (gợi ý |trans-title=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  73. ^ “TVアニメーション版 Kanonサウンドトラック第2巻” (bằng tiếng tiếng Nhật). Amazon.co.jp. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2009. Đã bỏ qua tham số không rõ |trans_title= (gợi ý |trans-title=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  74. ^ “Kanon ~カノン~ - florescence [Limited Edition] [Maxi]” (bằng tiếng tiếng Nhật). Amazon.co.jp. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2009. Đã bỏ qua tham số không rõ |trans_title= (gợi ý |trans-title=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  75. ^ “オルゴールで聴く TVアニメーション版 Kanon 作品集 [Soundtrack]” (bằng tiếng tiếng Nhật). Amazon.co.jp. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2009. Đã bỏ qua tham số không rõ |trans_title= (gợi ý |trans-title=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  76. ^ a b c D.SV. “エディターレビュー” (bằng tiếng tiếng Nhật). Myreview.jp. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2010.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  77. ^ “Air information and synopsis” (bằng tiếng tiếng Anh). Hentai.co.uk. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2007.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  78. ^ “Air information and synopsis” (bằng tiếng tiếng Anh). Hentai.co.uk. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2007.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  79. ^ Pesimo, Rudyard Contretas (2007). “'Asianizing' Animation in Asia: Digital Content Identity Construction Within the Animation Landscapes of Japan and Thailand”. Reflections on the Human Condition: Change, Conflict and Modernity - The Work of the 2004/2005 API Fellows. The Nippon Foundation. tr. 124–160. Đã bỏ qua tham số không rõ |chapterurl= (trợ giúp); |ngày truy cập= cần |url= (trợ giúp)
  80. ^ “Girl games come of age” (bằng tiếng tiếng Anh). Freetype.net. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 8 năm 2008. Đã bỏ qua tham số không rõ |acessdate= (gợi ý |access-date=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  81. ^ VAT69. “エディターレビュー” (bằng tiếng tiếng Nhật). Myreview.jp. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2010.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  82. ^ Martin, Theron (22 tháng 12 năm 2007). “Kanon DVD 1 Review” (bằng tiếng tiếng Anh). Anime News Network. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2009.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  83. ^ Martin, Theron (8 tháng 4 năm 2008). “Kanon DVDs 2-3 Review” (bằng tiếng tiếng Anh). Anime News Network. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2009.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  84. ^ Martin, Theron (29 tháng 7 năm 2008). “Kanon DVDs 4-5 Review” (bằng tiếng tiếng Anh). Anime News Network. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2009.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  85. ^ Martin, Theron (29 tháng 11 năm 2008). “Kanon DVD 6 Review” (bằng tiếng tiếng Anh). Anime News Network. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2009.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  86. ^ a b “PEAKS PCnewsWEB” (bằng tiếng tiếng Nhật). Peakspub. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 2 năm 2007. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2007.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  87. ^ “[美少女ゲーム年間販売本数ベスト] lỗi: {{lang}}: không hỗ trợ hệ chữ viết: jpan cho mã ngôn ngữ: ja ([[:Thể loại:Lỗi bản mẫu lang và lang-xx|trợ giúp]])[[Thể loại:Lỗi bản mẫu lang và lang-xx]]10” (bằng tiếng tiếng Nhật). Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2008. Tựa đề URL chứa liên kết wiki (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  88. ^ “PEAKS PCnewsWEB” (bằng tiếng tiếng Nhật). Peakspub. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 2 năm 2007. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2007.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  89. ^ “PEAKS PCnewsWEB” (bằng tiếng tiếng Nhật). Peakspub. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 2 năm 2007. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2007.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  90. ^ “PEAKS PCnewsWEB” (bằng tiếng tiếng Nhật). Peakspub. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 2 năm 2007. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2007.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  91. ^ “PEAKS PCnewsWEB” (bằng tiếng tiếng Nhật). Peakspub. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 2 năm 2007. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2007.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  92. ^ "Now Playing in Japan" (bằng tiếng tiếng Anh). IGN. 29 tháng 9 năm 2000. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2007.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  93. ^ “Famitsu Scores for the Week of 02/20/2002”. Famitsu (bằng tiếng tiếng Anh). 2002. Kanon (PS2, NEC Interchannel): 7 / 8 / 7 / 7 - (29/40) Đã bỏ qua tham số không rõ |month= (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  94. ^ “読者が選ぶ MY BEST ギャルゲーランキング 電撃G'smagazine.com” (bằng tiếng tiếng Nhật). ASCII Media Works. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2007. Đã bỏ qua tham số không rõ |trans_title= (gợi ý |trans-title=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  95. ^ “[モの付く自由業&泥縄お仕事募集&サンプル小説公開のお知らせ] lỗi: {{lang}}: không hỗ trợ hệ chữ viết: jpan cho mã ngôn ngữ: ja ([[:Thể loại:Lỗi bản mẫu lang và lang-xx|trợ giúp]])[[Thể loại:Lỗi bản mẫu lang và lang-xx]]”. スズモトジェイピー (bằng tiếng tiếng Nhật). Tháng 1 năm 2006. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2008. Tựa đề URL chứa liên kết wiki (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  96. ^ Satoshi Todome. “[初心者のための現代ギャルゲー・エロゲー講座: 第3集 それは"えいえんのせかい"から始まった] lỗi: {{lang}}: không hỗ trợ hệ chữ viết: jpan cho mã ngôn ngữ: ja ([[:Thể loại:Lỗi bản mẫu lang và lang-xx|trợ giúp]])[[Thể loại:Lỗi bản mẫu lang và lang-xx]]”. kyo-kan.net (bằng tiếng tiếng Nhật). Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2008. Tựa đề URL chứa liên kết wiki (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  97. ^ “A History of Eroge: Chapter Three - "Crying games" hit the standard” (bằng tiếng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2008.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  98. ^ Twilight Frontier. Eternal Fighter Zero (bằng tiếng tiếng Nhật). PC. Twilight Frontier.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  99. ^ Twilight Frontier. Glove on Fight (bằng tiếng tiếng Nhật). PC. Twilight Frontier.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  100. ^ Fred Gallagher. “MegaTokyo - (67) Saving Points” (bằng tiếng tiếng Anh). Fredart Studios. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2009.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  101. ^ “A PlayStation 2 Printer” (bằng tiếng tiếng Anh). Allrpg.com. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 1 năm 2008. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2009.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  102. ^ “「KANON」月宮あゆ (マスコットB付き)” (bằng tiếng tiếng Nhật). Movic. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2008.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  103. ^ “Kanon(カノン) 月宮 あゆ (MAX版)” (bằng tiếng tiếng Nhật). Kotobukiya. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2008.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  104. ^ “Kanon (カノン) 月宮あゆ (完成品)” (bằng tiếng tiếng Nhật). Kotobukiya. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2008.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  105. ^ “Kanon 月宮 あゆ” (bằng tiếng tiếng Nhật). Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2008.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  106. ^ “Kanon 公式 原画・設定資料集” (bằng tiếng tiếng Nhật). Enterbrain. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2008.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  107. ^ “Kanon the animation” (bằng tiếng tiếng Nhật). Kadokawa Shoten. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2008.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  108. ^ “TVアニメーションKanon Visual memories” (bằng tiếng tiếng Nhật). Tokyo Broadcasting System. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2008.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)

Liên kết ngoài

Bản mẫu:Link GA Bản mẫu:Link GA