Hạm đội 4 Hoa Kỳ
Hạm đội 4 Hoa Kỳ trước đây là một tư lệnh chính của Hải quân Hoa Kỳ tại Nam Thái Bình Dương trong Đệ nhị Thế chiến. Hạm đội được thành lập vào năm 1943 cùng với các hạm đội mang số khác. Hạm đội sau đó bị sáp nhập vào Hạm đội 2, có lẽ là trước năm 1950.
Năm 2009 hạm đội được tái thành lập, với Tư lệnh là Chuẩn đô đốc Joseph D. Kernan. Trụ sở Hạm đội đóng tại tại Mayport, Florida.
Tư lệnh
[sửa | sửa mã nguồn]Các tư lệnh của Đệ tứ Hạm đội:
- Jonas H. Ingram (1943 – tháng 11 năm 1944)[1]
- William R. Munroe (Tháng 11 năm 1944 – 1945)[1]
- Thomas Cooley (1945 – giữa năm 1946) [2]
- Daniel E. Barbey (Tháng 9 năm 1946 – tháng ban năm 1947)[3]
- Charles McMorris
- FC1(SW) Sean M. Baldino
Tái lập
[sửa | sửa mã nguồn]Ngày 24 tháng 4 năm 2008, Tư lệnh Tác chiến Hải quân Mỹ, Đô đốc Gary Roughead đã công bố tái lập Hạm đội 4 của Mỹ và bổ nhiệm Chuẩn Đô đốc Joseph D. Kernan, hiện đang giữ chức Tư lệnh Bộ Tư lệnh Tác chiến Đặc biệt Hải quân, làm Tư lệnh đầu tiên của Hạm đội 4.
Hạm đội 4 sẽ chịu trách nhiệm chỉ huy các tàu chiến, máy bay và tàu ngầm hoạt động trong khu vực đảm trách của Bộ Tư lệnh phương Nam của Mỹ bao gồm biển Caribe, Trung và Nam Mỹ và các vùng lãnh hải lân cận[4].
Đọc thêm
[sửa | sửa mã nguồn]- Samuel Eliot Morison, History of United States Naval Operations in World War II, (Volumes 3 & 4?)
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b “Second Report to the Secretary of the Navy”. United States Navy. ngày 1 tháng 6 năm 2006.
- ^ “Biography of THOMAS ROSS COOLEY”. United States Navy. ngày 1 tháng 6 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2007.
- ^ “Papers of Vice Admiral Daniel E. Barbey, 1941-1969”. Naval Historical Center. ngày 1 tháng 6 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2007.
- ^ “Hải quân Mỹ tái lập Hạm đội 4”. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2010.