[go: up one dir, main page]

Bước tới nội dung

Olga Nikolayevna của Nga

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Olga Nikolayevna của Nga
Nữ Đại vương công của Nga
Olga Nikolayevna trong một bức ảnh chụp chính thức năm 1914
Thông tin chung
Sinh(1895-11-15)15 tháng 11 năm 1895
Cung điện Aleksander, Tsarskoye, Đế quốc Nga
Mất17 tháng 7 năm 1918(1918-07-17) (22 tuổi)
Ekaterinburg, Nga Xô viết
An táng17 tháng 7 năm 1998
Nhà thờ chính tòa Thánh Pyotr và Pavel, Sankt-Peterburg, Nga
Hoàng tộcHolstein-Gottorp-Romanov
Thân phụHoàng đế Nikolai II Vua hoặc hoàng đế
Thân mẫuAlix của Hessen và Rhein
Tôn giáoChính thống giáo Nga

Olga Nikolayevna của Nga, tên đầy đủ là Olga Nikolaevna Romanova (tiếng Nga: Великая Княжна Ольга Николаевна; 15 tháng 11 năm 1895 – 17 tháng 7 năm 1918). Cô là con gái lớn của Nikolai II của Nga (vị hoàng đế cuối cùng của Đế quốc Nga) và Alix của Hessen và Rhein. Thông qua mẹ, Olga còn là chắt của Victoria của Anh. Bà bị giết bởi những người Cộng sản Bolshevik cùng với gia đình và những người hầu cận năm 1918. Điều này dẫn đến việc bà được Giáo hội Chính thống giáo Nga tuyên thánh.

Trong cuộc đời của mình, cuộc hôn nhân tương lai của Olga đã là một vấn đề gây suy đoán lớn trong nước Nga. Người ta đồn đại các cuộc hôn nhân của bà với Đại vương công Dmitri Pavlovich của Nga, Thái tử Carol của Romania, Thái tử Edward của Anh (con trai cả của George V) và với Thái tử Alekandar của Serbia. Tuy nhiên, chính Olga lại muốn cưới một người Nga và muốn ở lại đất nước của mình.

Cô là chị của Tatiana, Maria, Anastasia, và Aleksey, người thừa kế của đế quốc Nga. Trong số đó có Anastasia được cho là đã sống sót trong cuộc ám sát cùng gia đình và những người hầu cận trung thành ở nhà Ipatiev. Nhiều năm sau này, khi hàng loạt người tuyên bố là những thành viên sống sót của hoàng gia, một người phụ nữ tên là Marga Boodts đã tuyên bố rằng mình là Olga. Tuy nhiên, ít người xem lời tuyên bố của bà ta một cách nghiêm túc.

Thời thơ ấu

[sửa | sửa mã nguồn]
Olga Nikolayevna vào năm 1898.

Olga sinh ra vào ngày 15 tháng 11 năm 1895. Cô là con cả của Nikolai II của Nga và Alix của Hessen và Rhein. Cha mẹ bà vui mừng khôn xiết và khẳng định rằng họ không thất vọng vì đứa con đầu lòng không phải là con trai. Khi được chúc mừng, Nikolai tuyên bố, "Tôi mừng vì đứa con của chúng tôi là con gái. Nếu là con trai thì thuộc về người dân, nếu là con gái thì thuộc về chúng tôi."[1] Alix đồng ý: "Đối với chúng tôi thì không có vấn đề gì về giới tính. Đứa con của chúng tôi là một món quà từ Chúa."[1]

Vào năm 1896, Nikolai và Alix mang Olga theo trong một chuyến thăm tới Scotland, Pháp, và Darmstadt. Ở Balmoral, Victoria của Anh, bà cố ngoại của Olga đã gặp bà lần đầu tiên. Victoria tuyên bố "đứa bé thật là tuyệt vời."[2] Ở Pháp, Olga được mọi người rất yêu mến. Nikolai bảo với mẹ ông rằng "con gái chúng con đã tạo nên ấn tượng tốt ở khắp mọi nơi."[3]

Olga và các em được nuôi dạy trong điều kiện giản dị nhất có thể. Năm chị em tắm nước lạnh vào mỗi buổi sáng,[4] và người hầu xưng hô với Olga và các em bà bằng tên họ hoặc tên đệm bố chứ không phải bằng tước hiệu hoàng gia.[5]

Olga có 4 em: Tatiana, Maria, Anastasia, và Thái tử Aleksey. Nữ vương Victoria là một trong số các mẹ đỡ đầu của bà. Gia đình và bạn bè của Olga thường chỉ gọi cô là Olga Nikolaevna hoặc với các biệt danh "Olishka", "Olenka" hoặc "Olya".

Olga thường hay đi theo cặp với Tatiana. Hai người ở chung phòng, mặc đồ giống nhau, và được biết tới là "Cặp đôi lớn" hay "The big pair".[5]

Vào năm 1900, trước khi em trai là Aleksey chào đời, cha cô bị ốm nặng. Trong quãng thời gian này, Alix đã cố gắng thuyết phục chồng mình thay đổi đạo luật kế vị của Nga để cho phép các thành viên nữ được thừa kế ngai vàng trong trường hợp không có người thừa kế nam nào để Olga có thể cai trị đế quốc, thay vì là người chú Đại vương công Mikhail Aleksandrovich. Vì sự ra đời của Aleksey nên những thay đổi này đã không xảy ra.[6]

Thời niên thiếu và mối quan hệ với gia đình

[sửa | sửa mã nguồn]

Olga thần tượng cha mình và có đeo một vòng cổ với biểu tượng của Thánh Nikolay.[7] Olga, giống với các em, thích chơi tennis và bơi với cha trong thời gian nghỉ hè và thường xuyên tâm sự với ông khi đi bộ cùng nhau.[8]

Mặc dù rất yêu Alix nhưng Olga không được hòa thuận với mẹ mình. "Olga luôn khó chịu nhất với mọi lời đề nghị, mặc dù mọi chuyện có thể kết thúc bằng cách làm những gì em muốn", Alix viết cho Nikolai vào ngày 13 tháng 3 năm 1916. "Và khi em nghiêm khắc thì con bé lại hờn dỗi em."[9] Người hầu gái Elizaveta Ersberg nói với cháu gái của mình rằng Nikolai quan tâm đến con cái hơn là Alix.[10] Aleksandra thường xuyên nhắc nhở Olga phải làm tấm gương tốt cho các em và đảm bảo rằng các em cư xử tốt. Trong nhiều lá thư, Alix bảo Olga "trên hết, hãy nhớ luôn là một tấm gương tốt để các em noi theo"[11] và cảnh báo rằng "con phải có ảnh hưởng tốt tới các em".[11] Tuy nhiên, Olga lại gặp khó khăn trong việc đưa các em vào nề nếp.

Tatyana, bên trái, và Olga Nikolayevna mặc triều phục, khoảng năm 1904

Olga đặc biệt thân thiết với người cô cùng tên, Nữ đại vương công Olga Aleksandrovna. Sau này, Nữ đại vương công Olga Aleksandrovna nói rằng "[Olga] có tính cách giống tôi, và có lẽ đó là lí do tại sao chúng tôi hiểu nhau đến như vậy."[12] Olga cũng rất thân thiết với em trai Alexei - người ngưỡng mộ và coi cô là người chị gái yêu thích.

Mối quan hệ với Grigori Rasputin

[sửa | sửa mã nguồn]

Quan hệ tình cảm và chồng tương lai

[sửa | sửa mã nguồn]

Thời trưởng thành và thế chiến thứ nhất

[sửa | sửa mã nguồn]

Bị bắt giữ và cái chết

[sửa | sửa mã nguồn]

Mộ phần và xác nhận ADN

[sửa | sửa mã nguồn]
Tái tạo lại khuôn mặt của Olga bởi S.A. Nikitin, 1994

Những bộ hài cốt được tìm thầy trong rừng ngoài Yekaterinburg in 1991 về sau thông qua giám định ADN được xác định là các thành viên nhà Romanov và những người hầu. Hai thi thể của Aleksey và một trong các người em (có thể là của Maria hoặc Anastasia) bị mất tích. Vào ngày 23 tháng 8 năm 2007, một nhà khảo cổ học người Nga thông báo đã khám phá ra được hai bộ xương bị đốt cháy và rời rạc tại một điểm đốt lửa trại gần Yekaterinburg có vẻ khớp với địa điểm được mô tả trong hồi ký của Yurovsky. Các nhà khảo cổ học nói rằng hai bộ xương là của một cậu bé tầm 12 đến 15 tuổi khi qua đời và một cô gái trẻ từ 15 đến 19 tuổi.[13] Anastasia 17 và 1 tháng tuổi khi bị ám sát, trong khi chị gái Maria 19 tuổi và 1 tháng tuổi và em trai Aleksey còn 2 tuần nữa là đến sinh nhật 14 tuổi. Olga và Tatiana lần lượt 22 và 21 tuổi khi bị ám sát. Cùng với bộ hài cốt của 2 thi thể, các nhà khảo cổ học tìm thấy "những mảnh vỡ của thùng chứa acid sulfuric, đinh, dải kim loại dải kim loại từ hộp gỗ và đạn có cỡ nòng khác nhau." Các bộ xương được tìm thấy bởi máy dò kim loại.[14]

Các pháy y Nga thông báo vào ngày 22 tháng 1 năm 2008 rằng cuộc khám nghiệm sơ bộ cho thầy "khả năng cao'' bộ hài cốt thuộc về Thái tử Aleksey và một trong những người chị của ông.[15] Vào ngày 30 tháng 4 năm 2008, các pháp y Nga xác nhận rằng giám định ADN cho thấy bộ hài cốt thuộc về Thái tử Aleksey và một trong những người chị của ông.[16] Vào tháng 3 năm 2009, Tiến sĩ Michael Coble thuộc Phòng thí nghiệm Giám định ADN của Lực lượng vũ trang Hoa Kỳ xuất bản bài đánh giá cuối cùng về kết quả của xét nghiệm hài cốt năm 2007, đối chiếu với hài cốt năm 1999, kết luận rằng cả gia đình đều đã qua đời năm 1918. Các nhà khoa học người Nga và Áo cũng có chung kết quả.[17] Phát hiện này đã xác nhận rằng cả gia đình Sa hoàng đều đã qua đời.

Tuyên thánh

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào năm 2000, Olga và cả gia đình được tuyên thánh với tư cách là người chịu nỗi thống khổ bởi Giáo hội Chính thống giáo Nga. Cả gia đình trước đó được tuyên thánh vào năm 1981 bởi Giáo hội Chính thống giáo Nga ngoài Nga với tư cách là thánh tử đạo.

Thánh Olga Romanova
Thánh, Nữ đại vương công và Người chịu nỗi thống khổ
Tuyên thánh1981 và 2000 bởi Giáo hội Chính thống giáo Nga ngoài Nga và Giáo hội Chính thống giáo Nga
Đền chínhNhà thờ trên Máu, Yekaterinburg, Russia
Lễ kính17 tháng 7

Thi thể của Sa hoàng Nikolai II, Hoàng hậu Aleksandra, và ba cô con gái cuối cùng được an táng tại Nhà thờ chính tòa Thánh Pyotr và Pavel ở Sankt-Peterburg vào ngày 17 tháng 7 năm 1998, tám mươi năm sau khi bị ám sát.[18]

  • Azar, Helen. "The Diary of Olga Romanov: Royal Witness to the Russian Revolution. Westholme Publishing, 2013. ISBN 978-1594161773
  • Bokhanov, Alexander, Knodt, Tiến sĩ Manfred, Oustimenko, Vladimir, Peregudova, Zinaida, Tyutyunnik, Lyubov; dịch bởi Lyudmila Xenofontova. The Romanovs: Love, Power, and Tragedy, Leppi Publications, 1993, ISBN 0-9521644-0-X
  • Buxhoeveden, Nữ nam tước Sophie. The Life and Tragedy of Alexandra Feodorovna
  • Christopher, Peter, Kurth, Peter, và Radzinsky, Edvard. Tsar: The Lost World of Nicholas and Alexandra ISBN 0-316-50787-3
  • Gilliard Pierre, Thirteen Years at the Russian Court
  • Hawkins, George. Correspondence of the Russian Grand Duchesses: Letters of the Daughters of the Last Tsar Amazon 2020. ISBN 979-8571453486
  • King, Greg, và Wilson, Penny. The Fate of the Romanovs, John Wiley and Sons, Inc., 2003, ISBN 0-471-20768-3
  • Kurth, Peter. Anastasia: The Riddle of Anna Anderson, Back Bay Books, 1983, ISBN 0-316-50717-2
  • Massie, Robert K. Nicholas and Alexandra, Dell Publishing Co., 1967, ISBN 0-440-16358-7
  • idem. The Romanovs: The Final Chapter, Random House, 1995, ISBN 0-394-58048-6
  • Maylunas, Andrei, and Mironenko, Sergei, biên tập; Galy, Darya, dịch giả. A Lifelong Passion: Nicholas and Alexandra: Their Own Story, Doubleday, 1997 ISBN 0-385-48673-1
  • Rappaport, Helen. The Last Days of the Romanovs. St. Martin's Griffin, 2008. ISBN 978-0-312-60347-2
  • Rappaport, Helen. "The Romanov Sisters: The Lost Lives of the Daughters of Nicholas and Alexandra." St. Martin's Griffin, 2014. ISBN 978-1250067456
  • Radzinsky, Edvard. The Last Tsar, Doubleday, 1992, ISBN 0-385-42371-3
  • idem. The Rasputin File, Doubleday, 2000, ISBN 0-385-48909-9
  • Sullivan, Michael John. A Fatal Passion: The Story of the Uncrowned Last Empress of Russia, Random House, 1997, ISBN 0-679-42400-8
  • Tschebotarioff, Gregory P. Russia: My Native Land: A U.S. engineer reminisces and looks at the present, McGraw-Hill Book Company, 1964, ASIN 64-21632
  • Vorres, Ian. The Last Grand Duchess, 1965, ASIN B0007E0JK0
  • Wilton, Robert "The Last Days of the Romanovs" 1920
  • Zeepvat, Charlotte (2004). The Camera and the Tsars: A Romanov Family Album. Sutton Publishing. ISBN 0-7509-3049-7.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b Helen Rappaport, The Romanov Sisters, tr. 33
  2. ^ Helen Rappaport, The Romanov Sisters, tr. 40
  3. ^ Helen Rappaport, The Romanov Sisters, tr. 41
  4. ^ Massie (1967), tr. 132
  5. ^ a b Massie (1967), p. 135
  6. ^ Radzinskiĭ, Ėdvard (1994). Jak naprawdę zginął Car Mikołaj II. Warszawa: Warszawski Dom Wydawniczy. ISBN 83-85558-35-7. OCLC 33929561.
  7. ^ Radzinsky (1992), p. 358
  8. ^ Massie (1967), p. 133
  9. ^ Bokhanov et al., p. 124
  10. ^ Radzinsky, p. 116
  11. ^ a b Helen Rappaport, The Romanov Sisters, p. 119
  12. ^ Helen Rappaport, The Romanov Sisters, p. 102
  13. ^ Coble, Michael D.; Loreille, Odile M.; Wadhams, Mark J.; Edson, Suni M.; Maynard, Kerry; Meyer, Carna E.; Niederstätter, Harald; Berger, Cordula; Berger, Burkhard; Falsetti, Anthony B.; Gill, Peter; Parson, Walther; Finelli, Louis N. (11 tháng 3 năm 2009). “Mystery Solved: The Identification of the Two Missing Romanov Children Using DNA Analysis”. PLOS ONE. 4 (3): e4838. Bibcode:2009PLoSO...4.4838C. doi:10.1371/journal.pone.0004838. PMC 2652717. PMID 19277206.
  14. ^ Gutterman, Steve (23 tháng 8 năm 2007). “Bones turn up in hunt for last czar's son”. Associated Press. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2011.
  15. ^ “Suspected remains of tsar's children still being studied”. Interfax. 22 tháng 1 năm 2008. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2008.
  16. ^ Eckel, Mike (2008). “DNA confirms IDs of czar's children”. Yahoo!. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2008.
  17. ^ Coble Michael D (2009). “Mystery Solved: The Identification of the Two Missing Romanov Children Using DNA Analysis”. PLOS ONE. 4 (3): e4838. Bibcode:2009PLoSO...4.4838C. doi:10.1371/journal.pone.0004838. PMC 2652717. PMID 19277206.
  18. ^ Shevchenko, Maxim (31 tháng 5 năm 2000). “The Glorification of the Royal Family”. Nezavisimaya Gazeta. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 8 năm 2005. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2006.
  19. ^ a b Nicholas II, Tsar of Russia tại Encyclopædia Britannica (tiếng Anh)
  20. ^ a b Alexander III, Emperor of Russia tại Encyclopædia Britannica (tiếng Anh)
  21. ^ a b “Christian IX”. The Danish Monarchy. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 4 năm 2005. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2018.
  22. ^ a b Gelardi, Julia P. (1 tháng 4 năm 2007). Born to Rule: Five Reigning Consorts, Granddaughters of Queen Victoria. St. Martin's Press. tr. 10. ISBN 9781429904551. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2018.
  23. ^ a b Willis, Daniel A. (2002). The Descendants of King George I of Great Britain. Clearfield Company. tr. 717. ISBN 0-8063-5172-1.
  24. ^ a b Louda, Jiří; Maclagan, Michael (1999). Lines of Succession: Heraldry of the Royal Families of Europe. London: Little, Brown. tr. 34. ISBN 1-85605-469-1.