[go: up one dir, main page]

Bước tới nội dung

Kristin Scott Thomas

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Kristin Scott Thomas
Scott Thomas tại Liên hoan phim Cannes 2009
Nghề nghiệpDiễn viên
Hôn nhânFrançois Olivennes (1987–2005)

Kristin A. Scott Thomas[1] (sinh ngày 24 tháng 5 năm 1960) là một nữ diễn viên người Anh và cũng có cả quốc tịch Pháp. Bà bắt đầu nổi tiếng khắp thế giới trong thập niên 1990 về các vai diễn ở các phim Bitter Moon, Four Weddings and a FuneralThe English Patient.

Từ thập niên 1980, bà cũng tham gia ngành điện ảnh Pháp trong các phim như Tell No OneI've Loved You So Long của Philippe Claudel. Bà đã sống ở Pháp từ khi lên 19 tuổi, nuôi ba con lớn lên ở Paris, và nói rằng bà tự coi mình là người Pháp hơn là người Anh.[2] Bà được thưởng Bắc đẩu bội tinh từ ngày 01.01.2005.

Thời niên thiếu

[sửa | sửa mã nguồn]

Scott Thomas sinh tại Redruth, Cornwall thuộc Anh. Mẹ của bà, Deborah (nhũ danh Hurlbatt), lớn lên ở Hồng Kôngchâu Phi, và học kịch nghệ trước khi kết hôn với cha của Scott Thomas.[3] Cha của bà - trung tá Simon Scott Thomas - một phi công thuộc đơn vị Fleet Air Arm của Hải quân Hoàng gia Anh bị tử nạn trong một tai nạn máy bay năm 1964.[4][5][6] Bà là chị của nữ diễn viên Serena Scott Thomas, và là cháu họ của đô đốc Sir Richard Thomas.

Scott Thomas là người Công giáo.[7][8] Bà sống thời thơ ấu ở Trent, Dorset, Anh. Mẹ của bà tái hôn với một phi công khác của Hải quân Hoàng gia Anh, người này cũng bị chết trong một tai nạn máy bay, 6 năm sau cái chết của người chồng trước. Scott Thomas theo học các trường tư Cheltenham Ladies' College và trường dành cho nữ sinh St. Antony's LewestonSherborne, Dorset. Khi thôi học ở đây, bà di chuyển về Hampstead, London, và làm việc trong một cửa hàng bách hóa. Sau đó, bà bắt đầu học làm giáo viên kịch nghệ ở Central School of Speech and Drama. Khi được nói là mình sẽ không bao giờ trở thành một diễn viên giỏi, bà liền rời trường ở tuổi 19 và sang làm giúp việc ở Paris.[9] Nói tiếng Pháp lưu loát, bà vào học diễn xuất ở École nationale supérieure des arts et techniques du théâtre (ENSATT) tại Paris, và tốt nghiệp ở tuổi 25. Bà đóng cặp với ngôi sao nhạc pop Prince trong vai Mary Sharon - một phụ nữ Pháp thừa kế gia tài lớn – trong phim Under The Cherry Moon năm 1986. Trong bộ 3-CD LOtUSFLOW3R năm 2009 của mình, album MPLSoUND có bài hát mang tên "Better With Time", mà Prince nói là một bài thơ ca ngợi Kristin.

Sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Scott Thomas có lẽ nổi tiếng nhất về vai diễn chính như người vợ không chung thủy trong phim The English Patient, một trong các phim thành công nhất năm 1996. Trong thập kỷ 1990, bà đóng cặp với Hugh Grant trong phim Bitter Moon và phim thành công về bán vé trên toàn cầu Four Weddings and a Funeral (Bốn đám cưới và một đám tang).

Năm 2001 Kristin đóng vai Lady Sylvia McCordle trong phim đoạt giải Oscar Gosford Park.

Bà cũng xuất hiện trong phim truyền hình Book Clubbin' năm 2003, tập Absolutely Fabulous (bà đóng vai nhân vật Plum Berkeley).

Bà được thưởng Huân chương Đế chế Anh năm 2003, và cũng được chính phủ Pháp thưởng Bắc Đẩu bội tinh ngày 01.01.2005.

Đầu năm 2007, bà đóng vai Arkadina trong The Seagull của Anton Chekhov, sản xuất ở London và đoạt giải Laurence Olivier cho nữ diễn viên xuất sắc nhất ngày 9.3.2008.[10] Bà đã diễn lại vai này ở New York trong tháng 9 năm 2008.[11]

Năm 2006, bà đóng vai Hélène trong phim nói tiếng Pháp Ne le dis à personne (Tell No One), do Guillaume Canet đạo diễn. Năm 2008, Scott Thomas được khen ngợi nhiều về diễn xuất trong một phim Pháp khác, Il y a longtemps que je t'aime (I've Loved You So Long), trong đó bà được đề cử cho vai nữ chính xuất sắc nhất của cả giải BAFTAGiải Quả cầu vàng.

Năm 2008, Scott Thomas đóng vai Elizabeth Boleyn, Countess of Wiltshire mẹ của Mary, AnneGeorge trong phim The Other Boleyn Girl.

Năm 2009, bà đóng vai người sáng lập và chủ bút một tạp chí thời trang trong phim Confessions of a Shopaholic.

Bà đóng vai chính trong phim mà kịch bản được chuyển thể từ tiểu thuyết "The Woman in the Fifth" của Douglas Kennedy, theo kế hoạch sẽ được phát hành vào cuối năm 2010.[12]

Năm 2011, Scott Thomas sẽ đóng vai chính trong phim Bel Ami sắp tới như là một người yêu khác của George Duroy (do Robert Pattinson diễn xuất).[13]

Đời tư

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau 18 năm kết hôn, Scott Thomas đã ly dị với bác sĩ phụ khoa người Pháp François Olivennes. Họ có ba người con: Hannah (sinh năm 1988), Joseph (1991), và George (2000).

Vụ ly hôn này xảy ra nghe đồn là do bởi quan hệ lãng mạn của bà với nam diễn viên Anh Tobias Menzies, người mà bà gặp khi diễn vở kịch Three Sisters của Chekhov ở nhà hát West End London.[14] Menzies cũng là người cùng đóng vai chính với bà trong vở kịch As You Desire Me của Pirandello ở London năm 2006.[15]

Danh mục phim

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tên Vai diễn Ghi chú
1985 Charly
1986 Under the Cherry Moon Mary Sharon Đề cử — Giải Mâm xôi vàng cho nữ diễn viên phụ tồi nhất
1987 Djamal et Juliette
1987 Agent trouble Julie
1988 Lounge Chair Marie
1988 A Handful of Dust Brenda Last Giải phim Anh của nhật báo Evening Standard cho diễn viên mới triển vọng nhất
1988 The Tenth Man Thérèse
1989 Bille en tête Clara cũng phát hành với tên Headstrong
1989 Force majeure Katia
1990 Le bal du gouverneur Marie Forestier
1991 Aux yeux du monde L'institutrice
1991 Valentino! I Love You
1991 Mio caro dottor Gräsler Sabine
1992 Bitter Moon Fiona
1994 An Unforgettable Summer Marie-Thérèse Von Debretsy
1994 Four Weddings and a Funeral Fiona
1994 Le Confessional phụ tá của Alfred Hitchcock
1995 Plaisir d'offrir
1995 En mai, fais ce qu'il te plaît Martine
1995 Les Milles Mary-Jane Cooper
1995 Richard III Lady Anne
1995 Angels & Insects Matty Crompton
1996 Microcosmos Narrator
1996 Gulliver's Travels (mini-series) Immortal Gatekeeper
1996 The English Patient Katharine Clifton
1996 Mission: Impossible Sarah Davies
1996 Somebody to Love
1996 The Pompatus of Love Caroline
1997 Amour et confusions Sarah
1998 Souvenir Ann
1998 Sweet Revenge Imogen Staxton-Billing
1998 The Horse Whisperer Annie MacLean
1999 Random Hearts Kay Chandler
2000 Up at the Villa Mary Panton
2000 Play First Woman
2001 Life as a House Robin Monroe
2001 Gosford Park Sylvia McCordle
2003 Small Cuts Béatrice Petites coupures
2004 Arsène Lupin Joséphine, comtesse de Cagliostro
2005 Man to Man Elena Van Den Ende
2005 Chromophobia Iona Aylesbury
2005 Keeping Mum Gloria Goodfellow Đề cử — Giải của Giới phê bình phim London cho nữ diễn viên Anh của năm
2006 The Valet Christine Levasseur
2007 Mauvaise pente
2007 Tell No One Hélène Perkins
2007 The Walker Lynn Lockner
2007 The Golden Compass Stelmaria
2008 I've Loved You So Long Juliette
2008 The Other Boleyn Girl Elizabeth Boleyn
2008 Seuls two L'antiquaire
2008 Easy Virtue Mrs. Whittaker
2008 Largo Winch Ann Fergusson
2009 Confessions of a Shopaholic Alette Naylor
2009 Leaving Suzanne Đề cử — Giải César cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất
2010 Nowhere Boy Mimi Smith
2010 Contre Toi Anna
2010 Sarah's Key Julia Armond Đề cử — Giải César cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất
2011 Bel Ami Filming

Truyền hình

[sửa | sửa mã nguồn]

Trích dẫn

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Tôi không hề đi thẳng vào vấn đề nếu tôi có thể dùng lối khó khăn nhất. Tại sao là đơn giản khi anh có thể là phức tạp? - (Graham Fuller, The Cover Interview: Kristin Scott Thomas, originally published in Interview Magazine, November 1996)

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “BFI | Film & TV Database | SCOTT THOMAS, Kristin”. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2011.
  2. ^ INTERVIEW: Kristin Scott Thomas
  3. ^ “Scene change”. The Age. ngày 12 tháng 10 năm 2003. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2021.
  4. ^ Kristin Scott Thomas Biography (1960-)
  5. ^ “Kristin Scott Thomas learning to be herself - 07 Mar 2008 - NZ Herald: Entertainment News, Reviews and Gossip from New Zealand and around the World”. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2011.
  6. ^ thePeerage.com:: View topic - Scott Thomas family update
  7. ^ Hattenstone, Simon (ngày 27 tháng 3 năm 2003). 'I'm a horrible bully'. The Guardian. London. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2010. She was brought up as a Catholic and felt guilty about everything.
  8. ^ Hattersley, Giles (ngày 21 tháng 9 năm 2008). “Kristin Scott Thomas, haughty but nice”. The Sunday Times. London. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2010.
  9. ^ Anstead, Mark (ngày 10 tháng 6 năm 2007). “On the move Kristin Scott Thomas”. The Times. London. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2010.
  10. ^ Playbill News: Chiwetel Ejiofor and Kristin Scott Thomas Win 2008 Laurence Olivier Awards
  11. ^ “Whatsonstage.com – London theatre tickets, discounts, news and reviews”. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2011.
  12. ^ 'Woman in the Fifth' a Serial Killer? Is She or Isn't She?
  13. ^ Carole Horst (ngày 19 tháng 5 năm 2009). “Rob Pattinson to star in 'Bel Ami'. Variety. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2010.
  14. ^ Preston, John (ngày 17 tháng 10 năm 2005). “I'm very wary of trust”. The Daily Telegraph. London.[liên kết hỏng]
  15. ^ Gilbey, Ryan (ngày 27 tháng 7 năm 2007). “The three stages of Kristin”. The Guardian. London. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2010.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]