Ulf Kristersson
Ulf Kristersson | |
---|---|
Kristersson năm 2024 | |
Thủ tướng Thụy Điển | |
Nhiệm kỳ 18 tháng 10 năm 2022 – nay 2 năm, 21 ngày | |
Quân chủ | Carl XVI Gustaf |
Cấp phó | Ebba Busch |
Tiền nhiệm | Magdalena Andersson |
Lãnh đạo phe đối lập | |
Nhiệm kỳ 1 tháng 10 năm 2017 – 18 tháng 10 năm 2022 5 năm, 17 ngày | |
Quân chủ | Carl XVI Gustaf |
Thủ tướng |
|
Tiền nhiệm | Anna Kinberg Batra |
Kế nhiệm | Magdalena Andersson |
Lãnh đạo đảng Ôn hòa | |
Nhiệm kỳ 1 tháng 10 năm 2017 – nay 7 năm, 38 ngày | |
Cấp phó | |
Thư ký đảng | |
Tiền nhiệm | Anna Kinberg Batra |
Bộ trưởng An sinh xã hội | |
Nhiệm kỳ 5 tháng 10 năm 2010 – 3 tháng 10 năm 2014 3 năm, 363 ngày | |
Thủ tướng | Fredrik Reinfeldt |
Tiền nhiệm | Cristina Husmark Pehrsson |
Kế nhiệm | Annika Strandhäll |
Chủ tịch của Liên đoàn Thanh niên ôn hòa | |
Nhiệm kỳ 26 tháng 11 năm 1988 – 24 tháng 10 năm 1992 3 năm, 333 ngày | |
Tiền nhiệm | Beatrice Ask |
Kế nhiệm | Fredrik Reinfeldt |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | Ulf Hjalmar Kristersson 29 tháng 12, 1963 Lund, Thụy Điển |
Đảng chính trị | Đảng Ôn hòa |
Phối ngẫu | Birgitta Ed (cưới 1991) |
Con cái | 3 |
Cư trú | Sager House |
Alma mater | Đại học Uppsala |
Website | moderaterna |
Phục vụ trong quân đội | |
Phục vụ | Lục quân Thụy Điển |
Năm tại ngũ | 1983–1984 |
Ulf Hjalmar Ed Kristersson (sinh ngày 29 tháng 12 năm 1963) là một chính trị gia người Thụy Điển giữ chức vụ thủ tướng Thụy Điển và là lãnh đạo của Đảng Ôn hòa. Ông là thành viên của Riksdag ở hạt Södermanland từ năm 2014 và trước đó là từ năm 1991 đến năm 2000 ở hạt Stockholm.[1] Trước đây, ông từng là Bộ trưởng An sinh xã hội từ năm 2010 đến năm 2014 và Chủ tịch Liên đoàn Thanh niên ôn hòa từ năm 1988 đến năm 1992.[2]
Vào ngày 11 tháng 12 năm 2014, ông được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Tài chính chính phủ dự bị đảng Ôn hòa của phe đối lập và là người phát ngôn chính sách kinh tế. Vào ngày 1 tháng 9 năm 2017, Kristersson tuyên bố ông tranh cử cho lãnh đạo đảng Ôn hòa sau khi Anna Kinberg Batra từ chức.[3] Kể từ cuộc tổng tuyển cử Thụy Điển năm 2018 và dưới sự lãnh đạo của ông, M đã mở cửa với Đảng Dân chủ Thụy Điển và đến cuối năm 2021 đã thành lập một liên minh cánh hữu không chính thức với họ và hai đảng trung hữu của Alliance bị giải thể. Trong cuộc tổng tuyển cử Thụy Điển năm 2022, khối đó đã giành được đa số trong Riksdag, dẫn đến việc Kristersson được bầu làm Thủ tướng vào ngày 17 tháng 10 sau khi ông được đảng Dân chủ hậu thuẫn.[4]
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ “Ulf Kristersson (M) – Riksdagen”. Riksdagen. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2018.
- ^ “Kristersson blir M:s nya Borg”. Dagens Industri. ngày 11 tháng 12 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2014.
- ^ Kristersson kandiderar till M-ledare Lưu trữ 2018-08-14 tại Wayback Machine Published ngày 1 tháng 9 năm 2017
- ^ Cursino, Malu (ngày 17 tháng 10 năm 2022). “Ulf Kristersson: Swedish parliament elects new PM backed by far right”. BBC. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2022.