Súng
Súng là một loại vũ khí sử dụng lực đẩy của thuốc súng để bắn đạn qua nòng súng nhằm gây sát thương hoặc tiêu diệt hoàn toàn mục tiêu. Súng được trang bị cho cá nhân hoặc một nhóm sử dụng. Loại vũ khí có nguyên tắc cấu tạo như súng nhưng lớn hơn về kích thước nòng, đạn, tầm bắn, phương pháp xạ kích... được gọi là pháo. Theo quy ước của phương Tây, trong kỹ thuật vũ khí, cỡ nòng của vũ khí nhỏ hơn 20 mm thì được gọi là súng, còn lớn hơn gọi là pháo. Tuy nhiên vẫn có một số trường hợp ngoại lệ, ví dụ như các súng chống tăng (như RPG-2 (B40), RPG-7 (B41) hay súng cối (súng cối bộ binh), chúng tuy có cỡ nòng lớn hơn 20mm từ 1.5 đến cả chục lần, nhưng vẫn được gọi là súng.
Súng được phân loại theo nhiều tiêu chuẩn khác nhau, mỗi tiêu chuẩn sẽ do mỗi quân đội của mỗi nước khác nhau quy định. Có thể kể đến như: kích thước (ngắn, dài, lớn, vừa, nhỏ); số lượng nòng (súng đơn nòng, súng đa nòng); kết cấu nòng (súng nòng trơn và súng nòng khương tuyến); đặc tính cấu tạo; mức độ tự động hoá (súng tự động, súng bán tự động, súng không tự động,...); tính năng tác dụng (súng trường, súng máy,...); loại đạn sử dụng (7.62, 5.56, 5.45,...); ...[1].
Trước đây, người ta dùng nỏ và cung để bắn tên hay đạn đến mục tiêu, tuy nhiên, ngày nay nhiều thứ nỏ vẫn được gọi là súng, như "súng cao su", hay các ống phụt dùng làm công cụ cũng được gọi là súng, như "súng bắn đinh". Loại dùng trong quân sự như súng phun lửa (chúng phun hỗn hợp lửa và vật liệu cháy để gây sát thương hoặc tiêu diệt đối phương) có lúc cũng không phải là súng đúng nghĩa.
Hiện nay, có nhiều loại súng khác nhau đã được chế tạo, nhưng nhiều hơn cả là loại súng sử dụng đạn có vỏ và đầu đạn bằng kim loại, sử dụng thuốc súng để đạn qua một cái ống. Cái ống đó được gọi là "nòng". Nòng súng là bộ phận có tác dụng chắn khí áp cao và định hướng đạn bắn chính xác về phía mục tiêu. Nòng súng vì phải làm việc trong môi trường có nhiệt độ cao, áp suất lớn và độ mài mòn mạnh nên chúng đòi hỏi chi phí (vật liệu, công nghệ, nhân công) và thời gian gia công rất tốn kém để có độ bền cao hơn.
Phân loại
[sửa | sửa mã nguồn]- Theo nguồn năng lượng sinh công khi bắn, có súng hỏa khí, súng hơi, súng cơ và súng điện tử.
- Theo đặc điểm kết cấu và tính năng hoạt động, có: Súng ngắn, súng trường, cácbin, tiểu liên, súng máy (bao gồm tiểu liên, trung liên, đại liên), súng phóng lựu...
- Theo kết cấu nòng súng, có: Súng nòng trơn và súng nòng có rãnh xoắn.
- Theo đối tượng trang bị, có: Súng bộ binh, súng trên máy bay, súng trên xe chiến đấu...
- Theo biên chế sử dụng, có: Súng cá nhân và súng tập thể.
- Theo phương pháp sử dụng, có Súng cầm tay và súng có giá.
- Theo đối tượng tác chiến, có: Súng chống bộ binh, súng chống tăng, súng máy phòng không...
- Theo mức độ tự động hóa, có: Súng không tự động, súng bán tự động (tự động nạp đạn) và súng tự động.
- Theo số nòng, có: Súng một nòng, súng hai nòng và súng nhiều nòng...
Súng có thể bắn ra các loại đạn (đạn súng thông thường, đạn chì, đạn ghém, đạn lựu phóng, đạn chống tăng...) hoặc phương tiện sát thương khác (như chất cháy, mũi tên...). Đạn có thể nạp từ đuôi hay đầu nòng, từng viên hay nhiều viên chứa trong các hộp, băng...
Các kiểu súng đầu tiên xuất hiện từ thế kỷ XIII - XIV ở nhiều nước, trong đó có Việt Nam. Từ giữa thế kỷ XVI về trước chủ yếu sử dụng súng hỏa mai, Súng kíp ra đời cuối thế kỷ XV và được dùng rộng rãi đến giữa thế kỷ XIX. Sau đó xuất hiện súng có rãnh xoắn, phát hỏa bằng kim hỏa. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX xuất hiện súng tự động - loại súng phổ biến nhất hiện nay.[2]
Nguồn gốc súng
[sửa | sửa mã nguồn]Từ thế kỷ 10, trong bích họa ở Đôn Hoàng đã có những hình ảnh về những "ống" phụt ra lửa đầu tiên. Trong tác phẩm "Thủ Thành Lục" 守城錄 đầu thế kỷ 12, vị quan nhà Nam Tống là Trần Qui 陳規 đã nhắc đến việc sử dụng Hỏa Thương 火鎗 ("giáo lửa") trong chiến trận: "lại lấy thuốc trong hỏa pháo tạo Hỏa Thương cán dài hơn hai mươi cây... đều dùng hai người cùng cầm một cây" (又以火炮藥造下長竹竿火鎗二十餘條... 皆用兩人共持一條). Đó là những cây thương có đầu gắn ống tre hoặc kim loại, nhồi thuốc súng và đạn hoặc mảnh vỡ. Khi điểm hỏa, thuốc cháy, đạn và mảnh văng ra để gây sát thương.
Trên thế giới, nòng súng bắn đạn bằng kim loại cổ nhất tìm được đến nay mà có thể chắc chắn về niên đại là khẩu Thượng Đô hỏa súng 上都火銃 (Thượng Đô là kinh đô của nhà Nguyên), với văn khắc trên thân súng cho biết năm chế tác là năm Đại Đức 大德 thứ hai (1298). Ở Trung Quốc, danh xưng Hỏa Súng 火銃 cũng xuất hiện lần đầu trong văn bản ghi chép về năm 1287 (cùng năm diễn ra cuộc chiến Nguyên - Việt lần thứ 3): "‘tụ tập tráng đinh người Miêu, các “thập” và “ngũ” cầm hỏa súng liên tiếp" (糾集丁壯苗軍,火銃什伍相聯)[3].
Phần đông các phương tiện truyền thông hiện nay gọi Hồ Nguyên Trừng là ông tổ súng pháo của Việt Nam. Tuy nhiên, văn bia Thần Từ Cổ Tích, phụ lục Lịch Đại Gia Ban do Trương Hán Siêu soạn năm 1312 đã nhắc đến súng đạn: "bắt giữ kẻ trái mệnh tên là Chế Chí, thu hoạch voi ngựa, khí giới, súng đạn 擒獲逆俘名制至,收獲象馬器械銃磾". Như vậy từ 1312 nhà Trần đã biết đến súng và đạn. Thời điểm đó là 25 năm sau sự kiện đầu tiên nhắc đến hỏa súng trong Nguyên sử, 15 năm sau niên đại của khẩu Thượng Đô hỏa súng- súng kim loại cổ nhất tìm được từ trước đến nay, khoảng 30 năm trước những minh họa sớm nhất về súng trong sách châu âu, 62 năm trước khi Hồ Nguyên Trừng sinh ra, 78 năm trước trận phục kích sông Luộc khi Trần Khát Chân dùng hỏa súng bắn thuyền Chế Bồng Nga.
Về danh xưng, súng 銃 và pháo 砲/炮/礮/礟 là hai danh xưng đại trà nhất xuyên suốt các thời kỳ cho súng nói chung. Về từ nguyên, theo cuốn từ điển Quảng Vận thời Bắc Tống, Súng 銃, trong Hán văn thế kỷ 11 chưa có nghĩa là hỏa khí, mà nghĩa chính là lỗ tra cán rìu. Chỉ sau khi hỏa khí trở nên phổ dụng ở thế kỷ 13, súng mới bắt đầu có nghĩa chính như ta biết ngày nay. Cả hai từ súng và pháo đều không phân biệt súng lớn hay súng nhỏ. Nhà Nguyễn sử dụng danh xưng Pháo 礮 cho cả các loại súng nhỏ, giống với quy cách của nhà Thanh, chẳng hạn Tiểu Thạch Cơ Mã Pháo là súng ngắn điểm hỏa bằng đá lửa cho kỵ binh[4].
Ngày nay trong tiếng Việt, "pháo" chỉ "súng lớn", nghĩa đó cũng thường được gọi bằng từ Hán-Việt "đại bác". Đồng thời, chữ "pháo" hiện đại cũng chỉ những liều nổ giải trí, như "pháo hoa", "băng pháo"..., vậy đó là hai từ khác nhau cùng nguồn gốc và đồng âm. "Súng" trong ngôn ngữ thường nói hay dùng để chỉ súng cầm tay.
Trong khoa học quân sự, hiện có rất nhiều môn nghiên cứu về súng như: Nguyên lý kết cấu Vũ khí có nòng, nguyên lý máy tự động vũ khí.... Khoa học nghiên cứu về chuyển động của đạn, gọi là "thuật phóng", bao gồm các môn nhỏ hơn là "thuật phóng trong" mô tả chuyển động của đạn trong nòng và "thuật phóng ngoài" mô tả chuyển động của đạn ngoài nòng, thuật phóng trung gian nghiên cứu chuyển động từ khi đạn ra khỏi nòng đến khi nó đạt vận tốc lớn nhất, có thể coi thuật phóng trung gian là một phần của thuật phóng ngoài.
Súng trong hệ Nato cũng được chia thành rất nhiều loại, ví dụ Assault Rifles (Súng trường tiến công), Pistols (Súng ngắn), Machineguns (súng máy)...
Thuật phóng
[sửa | sửa mã nguồn]Bài này không có nguồn tham khảo nào. |
Bài viết hoặc đoạn này cần được wiki hóa để đáp ứng tiêu chuẩn quy cách định dạng và văn phong của Wikipedia. |
Trong lịch sử, thuật phóng trong được xây dựng qua ba giai đoạn, theo khả năng tính toán tăng lên, người ta tăng khối lượng tính. Ban đầu, các nhà bác học coi tốc độ cháy của thuốc phóng là nhanh tức thời, khí cháy không có tỷ khối, áp suất trong nòng luôn đồng đều. Điều này có thể mô tả gần đúng những súng yếu thời cổ nhồi thuốc nổ đen, chỉ cần tính toán đơn giản. Tiếp theo, đầu thế kỷ XX, người ta đã biết cắt lớp khối khí thuốc và mô tả dược tốc độ cháy, điều này chứng minh được áp suất và tốc độ khí thuốc không đồng đều trong nòng, đặc biệt quan trọng khi lượng thuốc nhồi tăng, lớn gấp nhiều lần khối lượng đầu đạn. Mức thuật phóng này cũng đã mô tả được gần đúng ống phóng không giật và cho ra đời các súng chống tăng phản lực như B41, ĐKZ, mô tả được biến đổi áp suất và tốc độ khí thuốc không đồng đều ở các đoạn khác nhau trong nòng. Ban đầu, thuật phóng được mô tả thành các bài toán song song, cho hàng nhiều người tính thủ công một lúc, người Nga có nhưng đơn vị tính toán lớn. Giai đoạn 3, hiện nay chạy được trên máy tính, băm nhỏ khí thuốc ra thành những phần tử nhỏ. Điều này mô tả được các hiện tượng cuộn, thắt dòng và những hiện tượng khác liên quan đến áp suất và tốc độ không đồng đều trên mặt cắt nòng, chứng minh được ảnh hưởng của kết cấu buồng nổ, đưa ra những phương án nòng hay ống phóng ưu việt nhất. (Đoạn mang tính chất tham khảo)
Hiện nay (2016), khoa học về súng, pháo tại Việt Nam đã gần như hoàn thiện, các bộ môn đã nghiên cứu khá toàn diện các vấn đề vũ khí nói chung và súng pháo nói riêng. Hoàn toàn có thể tính toán thiết kế các loại súng khác nhau, tuy nhiên do hạn chế về công nghệ luyện kim nên việc sản xuất chế tạo còn nhiều hạn chế.
Trong lịch sử, ngoài việc Hồ Nguyên Trừng làm rạng danh đại bác Việt Nam thì năm 1947, ông Trần Đại Nghĩa cũng chế dược bazooka kiểu 1944 Mỹ, góp phần quan trọng vào chiến công thắng Pháp. Trong Khởi nghĩa Hương Khê cuối thế kỷ XIX, lãnh tụ Cao Thắng cũng chế được súng trường kiểu Pháp, tuy nhiên chưa có khương tuyến (rãnh xoắn).
Thế kỷ XIX
[sửa | sửa mã nguồn]Thế kỷ XX
[sửa | sửa mã nguồn]Pháo (đại bác)
[sửa | sửa mã nguồn]Pháo (còn gọi là đại bác) là loại súng/vũ khí cộng đồng có cỡ nòng lớn từ 20 mm trở lên để phóng hoặc bắn các loại đạn nhằm tiêu diệt sinh lực và phương tiện của đối phương. Ngoài ra, nó cũng được dùng cho các nhiệm vụ khác (tạo khói, chiếu sáng...). Trong lịch sử, đại bác có sự phát triển đi trước các loại súng cá nhân và cộng đồng khác. Ở phương Đông, bản thân từ đại bác dùng để chỉ loại pháo cỡ lớn. Từ pháo trong thuật ngữ quân sự cũng khác với từ pháo trong dân gian dùng để chỉ các loại quả nổ bằng giấy quấn quanh một liều thuốc nổ (hoặc thuốc cháy) nhỏ để sử dụng cho mục đích giải trí. Pháo là vũ khí cơ bản của binh chủng pháo binh, có mặt trong các quân chủng: Hải quân (pháo binh hải quân), lục quân (pháo mặt đất, pháo bờ biển), phòng không (pháo cao xạ), binh chủng đặc biệt (pháo laser).[5]
Pháo được chia làm nhiều loại:
- Theo môi trường và đối tượng tác chiến có pháo mặt đất, pháo bờ biển, pháo phòng không (cao xạ), pháo hạm, pháo tăng, pháo chống tăng.
- Theo tính năng: pháo lựu, pháo nòng dài, pháo cối, pháo không giật
- Theo cách thức dẫn đạn: Pháo có nòng, pháo phản lực
- Theo cấu tạo mặt trong của nòng: pháo có nòng rãnh xoắn, pháo nòng trơn.
- Theo khả năng cơ động: pháo cố định (thường đặt trong pháo đài), pháo xe kéo, pháo tự hành, pháo mang vác (pháo nhẹ, sơn pháo).[6]
Cơ cấu hãm lùi, đẩy lên
[sửa | sửa mã nguồn]Khi bắn, tỷ lệ khối lượng giữa nòng pháo và đạn càng cao thì càng ít giật, do tỷ lệ động năng tác động vào pháo giảm. Do giá pháo của Thần cơ thương pháo còn tồi nên đúc nòng rất nặng, ví dụ Hải pháo Thế kỷ XIX trên, thừa kế các pháo nòng dày cổ đại. Điều này làm pháo thì nặng mà bắn đạn thì nhẹ. Điều này được cải tiến trong Thế kỷ XX, cùng với việc dùng những hợp kim mới cho phép nòng mỏng, dài mà chịu được áp lực lớn. Pháo nhẹ mà ít giật.
Pháo bắn thẳng và lựu pháo có thêm khối lùi, nhờ đó lực tác dụng lên đất giảm đi, ít thay đổi vị trí giá súng, ảnh hưởng đến độ chính xác. Giá súng có bánh xe và càng, đầu càng có cày chống giật. Hoặc súng được đặt trên giá ba chân. Nòng súng đặt trong máng súng, máng súng đặt trên bộ ngõng ngáng. Bộ ngõng ngáng lắp vào giá súng, cho phép thay đổi góc bắn, quay và ngỏng lên xuống. Nòng súng trượt trong máng súng được bôi trơn bằng mỡ súng. Mỗi phát bắn, nòng thụt về sau, tốc độ được hãm bằng hãm lùi thủy lực, nòng trở về vị trí cũ sau khi lùi bằng đẩy về. Đẩy về làm bằng lò xo hay khí nén. Tuy là máng nhưng của Nga và Đức là ống tròn, đến giờ thì các pháo hầu như ống tròn.
Thông thường có ba loại máy đẩy về và hãm lùi. Các lựu pháo dùng máy hỗn hợp, dùng khoang chứa dầu không đầy hoặc piston trôi, một máy chung hai chức năng. Các pháo bắn chính xác như pháo chống tăng dùng máy lùi và máy đẩy về riêng, có cơ chế lùi tự do khi đang bắn. Pháo trên xe tăng trước đây là pháo giá cứng, dùng toàn bộ khối lượng xe hãm pháo. Các xe tăng hiện đại dùng lùi ngắn (T-80, T-90 lùi 300mm).
Đạn, liều và khóa nòng.
[sửa | sửa mã nguồn]Thuốc phóng đựng trong vỏ đạn chống bắt lửa gọi là liều, đạn và liều của đại bác bắn thẳng nhồi ở sau, một số loại súng cối đơn giản nhồi miệng nòng. Sau khi nạp đạn và liều vào nòng, người ta đậy đáy nòng lại bằng khóa nòng. Đến đầu thế kỷ XX vẫn dùng chủ yếu khóa nòng quay gờ nhỏ (tương tự như vặn bu lông vào ốc ren), khóa nòng ren cắt. Sau này, súng dùng khoá nòng xoay gờ lớn hay khóa nòng then xoay. Ở tâm đáy vỏ đạn, có hạt nổ. Đây là khối thuốc dễ phát nổ được đặt giữa một tấm mỏng để che và một tấm dày làm đe, kim hỏa từ khóa nòng đập qua tấm mỏng vào, ép hạt nổ lên đe kích nổ đạn. Những súng nhỏ dùng đạn liền khối vỏ đạn-đầu đạn-liều phóng-hạt nổ, còn súng lớn một số dùng liều rời, nhiều liều. Hệ thống cơ khí nạp đạn, quay tầm hướng, tháo vỏ đạn... và hệ thống điện tử đóng vai trò quan trọng, đặc biệt trong các hệ thống đối kháng dùng súng như xe tăng hay thiết giáp hạm (đúng hơn là "tàu chiến đấu"). Các hệ thống đối kháng dùng súng này chuyên để diệt nhau, có hai nhiệm vụ lớn nhất là bắn loại súng diệt nhau và chống lại đạn.
Nòng xoắn, thuốc phóng ổn định và đạn xuyên phá
[sửa | sửa mã nguồn]Ba cải tiến quan trọng trong thế kỷ XIX là: nòng xoắn, thuốc cháy chậm và đạn xuyên phá.
Nhờ nòng xoắn có các rãnh xoắn trong thành nòng, viên đạn xoáy như con quay trong không khí, luôn chống lại các lệch lạc, viên đạn quay tác dụng với không khí luôn hướng tâm khí động về phía trước tâm khối lượng. (Có thể hình dung như con quay đồ chơi, luôn lộn ngược trên đinh). Nhờ đó, giảm tản mát đạn, có thể làm đạn dài nặng mà vẫn hẹp, ít lực cản, thay cho đạn cầu. Những nòng xoắn đầu tiên có từ thế kỷ XV, nhưng nhồi thuốc miệng nòng dùng nòng xoắn rất khó.
Các thuốc phóng mới có độ bền cơ học cao, không vỡ khi phóng đạn, được đúc thành các ống trụ rỗng. Khi cháy, các ống này ít thay đổi diện tích mặt ngoài nên cháy ổn định hơn, cháy lâu hơn. Nhờ điều khiển được phản ứng cháy, người ta nhồi được nhiều thuốc phóng hơn trong pháo nòng dài, tăng tầm bắn mà giảm khối lượng lựu pháo, nòng dày của pháo hạm vì thế dần được thay bằng nòng mỏng như M-46.
Đạn xuyên phá được đúc bằng thép tốt, nhồi thuốc nổ ổn định, khi đập vào giáp không kích nổ mà xuyên vào trong. Thuốc nổ cháy chậm và ổn định cùng đạn xuyên được người Đức phát triển ứng dụng đầu thế kỷ XX (khoảng năm 1902). Đến giữa thế kỷ XX, súng lớn cũng được đặt trên các xe cơ giới bọc thép, trở thành "pháo tự hành" và "xe tăng". Súng cũng được đặt trên các tàu biển bọc thép lớn, hệ thống diệt tàu trên biển này được gọi là tàu chiến đấu (battle ship), tuy nhiên, dịch theo Hán-Việt là thiết giáp hạm hơi khác.
Súng ngắn
[sửa | sửa mã nguồn]Các súng cầm tay nhỏ gọn nòng ngắn gọi chung là "súng ngắn", tiếng Anh là pistol. Những súng cầm tay nòng ngắn mạnh thường sử dụng đạn ngắn nhưng đường kính lớn, giảm hạn chế do chiều dài nòng gây ra.
Súng ngắn có ổ xoay còn được gọi trong tiếng Anh là revolver.
Súng ngắn bắn phát một
[sửa | sửa mã nguồn]Tuy từ "súng ngắn" trong khoa học quân sự chỉ chung các loại súng cầm tay nòng ngắn nhưng dùng trong ngôn ngữ thông thường hơi khác, loại súng cầm tay nòng ngắn gọn nhỏ bắn phát một được gọi là súng ngắn. "Súng ngắn" gọn nhỏ chứa ít đạn, bắn phát một dùng cho sĩ quan hay cảnh sát. Súng này còn hay được gọi là "súng lục", "súng sáu". Súng ngắn có từ thời súng kíp, để tăng số lượng đạn nạp sẵn, người ta làm 2 nòng. Khẩu Colt-1851 Mỹ hồi giữa thế kỷ XIX dùng ổ quay 6 buồng đốt, đạn vỏ giấy, có lẽ là súng dùng đạn có vỏ đầu tiên, vì nó mà có tên "súng lục". Đến đầu thế kỷ XX các súng ngắn phát một dùng băng xoay vẫn phổ biến, như Browning, Nagant M1895.
Ví dụ về súng ngắn ngày nay (còn gọi là súng ngắn tự động) như Fedor Tokarev TT-33 thế chỗ Nagant M1895. (Tokarev-Tula kiểu 33, Tokarev ở Tula, hay được gọi tên tiếng Việt là K-54), khẩu này ban đầu bắn đạn 7,63 x 25mm, các phiên bản hiện đại (vẫn sản xuất) dùng cỡ đạn 9mm. Colt M1911 cũng thay thế cho các súng ổ xoay. Thời đó hàng là FN M1900 John Browning (1896). Makarov là đời thay thế cho TT-33[cần dẫn nguồn]. Thay cho ổ xoay là khóa nòng lùi.
Trong hồ sơ thuế, hải quan của Việt Nam phân biệt súng ngắn và súng ổ xoay-để tương thích với tài liệu tư pháp nước ngoài. Nhưng trong ngôn ngữ dùng chung vẫn thường gọi là súng ngắn[cần dẫn nguồn].
Loại súng máy dùng chung đạn với các súng ngắn gọi là "súng máy nhỏ", ví dụ PPSh-41 hồi thế chiến 2 (tên Việt Nam là K-50). Khẩu súng máy nhỏ nổi tiếng ngày nay là Uzi của Israel, thiết kế đầu những năm 1950, đến năm 1951 được chấp nhận trang bị, năm 1956 tham chiến lần đầu tạo thành công lớn. Súng Uzi dùng cỡ đạn 9x19mm Parabellum, cải tiến từ khẩu CZ Model 25 của Tiệp Khắc. Các súng trường và súng liên thanh nhỏ đều có những ưu thế riêng. Súng liên thanh nhỏ có uy lực rất mạnh ở tầm gần. Tuy nhiên, cũng rất khó sử dụng chúng ở tầm 200 mét như các thông báo. MP7 mang đạn đường kính nhỏ 4,6x30mm nên gọn hơn, nặng 2 kg đầy đủ băng 40 viên.
Một số súng cạc bin tính năng không khác nhiều súng ngắn bắn nhanh, như AK-74U (AK-74 nòng ngắn) nặng 2,71 kg. Các súng ngắn bắn liên thanh có thể dùng khóa nòng lùi với trích khí thẳng hoặc trích khí ngang (MP7).
Nhiều người hay nhầm submachine gun (súng máy cỡ nhỏ) là súng tiểu liên.
Vũ khí cá nhân chính
[sửa | sửa mã nguồn]Súng trường, đọc tiếng Việt đúng là súng dài, tuy nhiên trong tiếng châu Âu ngày nay, súng trường được gọi là rifle, tức là nòng xoắn, đây là thói quen nói tắt súng dài nòng xoắn. Thực ra các súng hỏa mai, súng kíp nòng trơn đã phân ra súng nòng dài làm vũ khí chính của bộ binh, súng nòng ngắn dắt lưng cho gọn, súng trung bình là cạc bin (súng kỵ sĩ).
Khác với đại bác, súng trường được thiết kế sao cho gọn nhẹ, tin cậy, chính xác nhưng tầm bắn hiệu quả thấp. Những súng trường nòng xoắn đầu tiên xuất hiện trước thế kỷ XIX, nhưng đến hết thế kỷ này mới phổ biến súng trường có vỏ đạn và nòng xoắn. Do lượng thuốc nổ nhỏ nên không dùng viên trụ rỗng và dùng miếng thuốc dẹt. Người ta cũng thấm các chất làm chậm tốc độ cháy lên bề mặt thuốc, để khi giảm diện tích bề mặt, tốc độ thuốc cháy ăn sâu nhanh lên, điều hòa tốc độ cháy. Vỏ đạn có gờ hay khe phía sau cùng để một cái móc trên khóa nòng móc vào, kéo vỏ đạn ra khỏi nòng. Gờ dần thay bằng khe tin cậy hơn.
Đầu thế kỷ XIX, trong khi châu Á vẫn mải mê với đại bác thì châu Âu đã phát triển và trang bị nhiều súng trường, từ đó, súng này trở thành vũ khí chính. Cuối thế kỷ XIX, súng trường bắn phát một có các loại khóa nòng then xoay, đòn bẩy, bơm, khối quay. Tên gọi súng trường trợ chiến do tính năng ban đầu của nó chưa ưu việt, thời gian nạp thuốc đạn, đạn, ngắm bắn, khai hỏa tương đối dài, tốc độ bắn rất chậm (như pháo), nên chỉ được dùng để hỗ trợ cho các loại vũ khí lạnh khác đang thông dụng như đao, kiếm, lưỡi lê.
Để thống nhất, người ta chọn ra một mẫu súng trường, lấy làm tiêu chuẩn cho quân đội mỗi nước trong một thời kỳ. Súng đó sẽ được gọi là "súng trường trợ chiến". Điều này làm thuận tiện việc huấn luyện, hậu cần, trang bị...đảm bảo huy động sức mạnh tối đa của đất nước khi có chiến tranh. Loại súng được chọn sẽ được chế tạo và đưa vào sử dụng hàng loạt sau khi đăng ký bản quyền. Từ bản quyền được cấp, các hãng sẽ duyệt mẫu súng riêng với chủ bản quyền như quân đội, từ đó nhận hợp đồng chế tạo và súng sẽ hơi khác ở mỗi hãng.
Sau Nga và Đức, mãi đến gần Thế chiến 2 các nước khác mới đặt ra yêu cầu trang bị súng trường trợ chiến nhưng ở mức độ phổ cập hơn. Ví dụ như Mỹ, họ chỉ đặt ra yêu cầu trang bị lại cho quân đội từ kiếm và súng ngắn sang trang bị phổ biến là súng trường. (trừ cấp chỉ huy vẫn giữ kiếm và súng ngắn như cũ)
Gewehr 1888 (G88), Mosin và Mauser
[sửa | sửa mã nguồn]Đây là tên thường gọi của hai loại súng trường phục vụ của Nga và Đức. Chúng ra đời thập niên 189x. Các súng này ra đời cùng với việc xuất hiện đạn có vỏ, đáy vỏ dày, có gờ hay rãnh móc, đầu đạn có vỏ mềm.
Mosin và Mauser đều là tên hai nhà thiết kế, sản xuất súng. Mosin thường được phương Tây gắn chữ Mosin Nagant để kể công, nhưng thật ra cái bộ phận Nagant trong đó đã biến mất từ lâu[cần dẫn nguồn]. Mosin và Mauser là hai súng trường được sản xuất nhiều và dùng lâu nhất thế giới. Hàng trăm triệu các súng này đã được làm và dùng cho đến nay, gấp hàng chục lần các súng trường hạng nặng khác. Chúng đều không phải là một khẩu cụ thể, mà là một tập hợp các tiêu chuẩn về hình học, vật liệu, công nghệ, tính năng, sử dụng...được sản xuất ở nhiều nước, nhiều hãng khác nhau trong các điều kiện rất khác nhau.
Mosin và Mauser là những súng trường trợ chiến điển hình, trong khi đó, ở các nước Anh-Mỹ-Pháp không có khái niệm súng trường trợ chiến hoàn chỉnh như chúng. Khác với các súng khác, bản quyền Mosin và Mauser được nhà nước nắm giữ và đặt hàng rộng rãi. Chúng được thiết kế để sản xuất ở nhiều điều kiện khác nhau. Trong khi đó, các súng trường Mỹ chỉ sản xuất trong điều kiện của một hãng nào đó. Phần công cộng duy nhất là trang bị, chứ không phải thiết kế và sản xuất.
Các súng Mosin và Mauser đều được ra đời trong một cuộc thi tuyển thiết kế rộng và lâu, rồi một quá trình cải tiến cũng lâu dài. Kết quả của những cuộc thiết kế đó là hai khẩu súng có chất lượng, số lượng sản xuất, thời gian và khu vục sử dụng vượt xa so với tất cả các loại súng trường cùng thời khác. Thời gian và không gian sản xuất các súng này cũng vậy, những cải tiến Mauser mới nhất được Trung Hoa Dân quốc sản xuất dập theo mẫu có sẵn trong các công xưởng được trang bị rất thô sơ.
Cả hai khẩu ban đầu đều được thiết kế trên hai phiên bản súng trường và cạc-bin, nhưng sau những năm 1930, chỉ còn phiên bản cạc-bin của chúng được sản xuất.
Mauser là súng trường trang bị chính trong quân chủ lực Việt Minh thời trước Cách mạng tháng Tám. Nguồn cung chủ yếu là chiến lợi phẩm lấy từ Pháp và Trung Hoa Dân quốc, sau đó là từ viện trợ. Thời đầu kháng chiến chống Pháp, cũng có một ít súng Mosin đến tay Việt Minh từ người Nhật, nhưng lại là phiên bản rất cổ do quân đội Nhật thu được từ chiến tranh Nga - Nhật (1904-1905). Cuối cuộc kháng chiến, người ta nhận được một số phiên bản Mosin chính hãng từ nguồn viện trợ. Nhưng do không thống nhất về loại đạn có thể sử dụng nên QĐNDVN chuyển giao cho các đơn vị quân địa phương và dân quân du kích. Đến thời kỳ kháng chiến chống Mỹ thì kiểu súng Mauser được loại bỏ khỏi biên chế vũ khí bộ binh của QĐNDVN sau Kế hoạch Z. Phần lớn số súng còn được dùng để huấn luyện tân binh, dân quan du kích hoặc cho vào lò luyện thép.
Vào năm 1882, người Nga đã đặt ra yêu cầu thiết kế súng có hộp đạn trong. Ban đầu là những cải tiến của khẩu súng Berdan cũ đang dùng. Tuy nhiên, người Nga nhanh chóng phát hiện ra rằng, cần phải thay đổi hoàn toàn bằng một loại súng mới. Họ tổ chức một cuộc thi tuyển thiết kế súng trên quy mô toàn châu Âu trong nhiều năm, năm 1888, thành lập Hội đồng thử nghiệm súng có băng đạn.
Sergei Ivanovich Mosin thiết kế một khẩu súng năm 1889. Đến năm 1891, trong cuộc chọn chung kết, Mosin thắng với một điều kiện là sử dụng tay kéo khóa nòng của Nagant[cần dẫn nguồn]. Tiền bản quyền được Hội đồng trả tiền cho Nagant và Mosin được tổ chức sản xuất súng. Ban đầu, có 3 phiên bản, phiên bản dành cho bộ binh nặng, phiên bản dành cho long kỵ binh và phiên bản dành cho kỵ binh nhẹ (còn gọi là Kỵ binh Cosack) ngắn hơn, phù hợp với việc tác chiến trên lưng ngựa. Đến năm 1930, phiên bản Mosin 1891/30 ngắn theo các bản dành cho kỵ binh Cosack được gọi là cạc-bin. Phiên bản Mosin 1891/44 ra đời năm 1944 khá hoàn thiện và được dùng nhiều ở Việt Nam (tên Việt Nam là K-44). Trong cơ chế nạp đạn, hất vỏ đạn cũ ra, người Nga chọn loại đạn gờ móc, lạc hậu nhưng thích hợp với công nghệ bậc thấp của Nga lúc đó. Điều này về sau cản trở việc phát triển súng máy Nga mà rất khó bỏ. Mauser hoạt động êm, đỡ giật hơn nhưng Mosin khỏe hơn, kích thước và trọng lượng của nó thích hợp với người Nga nhưng lại nặng và dài so với các loại súng khác. Mosin có khả năng sản xuất hàng loạt hơn do cấu tạo đơn giản, nguyên vật liệu phổ biến gồm chủ yếu là thép và gỗ thông.
Mauser ra đời dần dần. Tiến bộ hơn Nga, từ những năm 1870 Đức đã có những súng trường tiên tiến nội địa, Mauser đã dẫn đầu về thiết kế súng và ông hoàn thiện nó liên tục. Cũng như Nga, cuối những năm 1880 Đức đặt ra Hội đồng Súng cầm tay. Không hiểu sao, Mauser đã không tham gia hội đồng. Hội đồng nhanh chóng tiếp cận hàng loạt những tiến bộ kỹ thuật mới: công nghệ dập vỏ đạn, công nghệ bọc đầu đạn, sản xuất súng... đặc biệt là chấm dứt việc sử dụng thuốc nổ đen. Gewehr 1888 (bộ binh 1888, G88) là khẩu súng trường trợ chiến đầu tiên được chấp nhận. G88 cũng có bản cạc bin, nó được sản xuất ít vì phiên bản Mauser ra liền theo. Khẩu này thiết kế không có đóng góp của Mauser và được gọi là Súng theo kiểu 88. Tuy vậy, G-88 thừa kế rất nhiều đặc điểm của các khẩu Mauser trước đó. Xem thêm G88. Lưu trữ 2009-01-07 tại Wayback Machine
Mauser nhanh chóng nhận thấy vai trò của Hội đồng và đem kỹ thuật của mình đóng góp, hãng hoàn thiện G88 và cho ra các Model 1889/90/91, đã hình thành nên cấu tạo súng Mauser. Nhưng chỉ đến năm 1898, khi loại đạn mới hoàn chỉnh, Mauser 1891/98 mới giống các súng sau này. Khoảng những năm 1930, phiên bản cạc bin mới được hoàn thiện và được sản xuất lớn ở rất nhiều nước. Đạn hoàn toàn không có gờ móc, hết sức tiên tiến lúc đó và thuận lợi sau này. Năm 1898, hình thành Mauser báng cải tiến ngắn Model 98k (k=kurz ngắn). Phiên bản cạc bin báng ngắn có ký hiệu Karabiner 98k K98k. Cũng có người viết G98, nội bộ Đức hay dùng cách viết súng bộ binh 98.
Trung Hoa Dân quốc đã sao chép khẩu Mauser để sản xuất ngay từ những ngày đầu tiên lập quốc ở Quảng Đông. Không thể thống kê được, nhưng chỉ tính trước Thế chiến II đã có hàng chục triệu khẩu Mauser chỉ tính riêng loại do Trung Hoa Dân quốc sản xuất theo mẫu. Tốc độ sản xuất của Mosin cũng đáng kinh ngạc không kém, trong điều kiện công nghiệp kỹ thuật rất thấp kém mà đến 1904, Nga đã có gần 4 triệu khẩu.
Ví dụ về các súng trường không đạt hoàn toàn khái niệm phục vụ là Springfield Model 1903. Mỹ thuê Mauser thiết kế Springfield Model 1903 để thay thế Springfield Model 1892 (sao chép súng trường Krag. Tuy nhiên, Springfield Model 1903 không có khóa an toàn kim hỏa đặc trưng của Mauser. Springfield Model 1903 có đạn giống Mauser, cỡ đạn 0,308inch (hơi to hơn đạn Mosin 7,62mm do quy định rãnh xoắn), nhưng đạn sùng thuốc súng Cordic Mỹ. Loại đạn 30-03 đầu tù được thay bởi 30-06 năm 1907 với kiểu đầu đạn nhọn nặng đuôi (giống đạn Mauser và Mosin năm 1898). Việc chọn kích thước viên đạn không hợp lý (thuốc phóng ít, đầu đạn nặng) và Springfield Model 1903 trở nên yếu kém hơn Mauser và Mosin. Springfield Model 1903 cũng không bao giờ được chấp nhận trong biên chế vũ khí của quân Hoa Kỳ và được rút ra khỏi vai trò súng trường chủ lực vào những năm 1930.
Mauser Lưu trữ 2007-08-06 tại Wayback Machine Mauser Mauser Lưu trữ 2003-07-14 tại Wayback Machine Mauser
Đầu thế kỷ XX, thường người ta sử dụng súng trường có khóa nòng then xoay điều khiển tay. Mỗi lần bắn phải nạp đạn lại. Để nạp đạn, người bắn xoay cần gạt để mở hãm khóa nòng, kéo cần gạt về sau, vỏ đạn va phải một gờ nhô ra, bật ra khỏi súng. Sau đó, người ta chế ra băng đạn trong súng, đạn dự trữ sẵn trong súng 5-10 viên, mỗi lần bắn xong chỉ cần kéo cần gạt là tháo vỏ và nạp đạn lại được. Khóa nòng có mấu gạt móc đạn từ trong băng. Các viên đạn còn lại được lò xo đẩy vào khoảng trống.
Các khẩu Mosin và Mauser đều là Súng trường không tự động.
Khẩu Winchester Model 70, bắt đầu sản xuất từ 1936, nay vẫn được cải tiến và sản xuất, đây là loại súng trường hạng nặng. Đầu thế kỷ XX, những súng trường hạng nặng còn dược gọi là "súng trường chiến đấu", có nòng dài nhất và đường kính đạn cũng lớn. "Súng trường hạng nặng" đầu thế kỷ XX là vũ khí chính của bộ binh, nay hay dùng cho mục đích đặc biệt, như bắn tầm xa, bắn tỉa, bắn chính xác... ví như VSSK Vychlop 12,7mm Lưu trữ 2008-04-05 tại Wayback Machine KSVK 12,7mm Lưu trữ 2005-12-15 tại Wayback Machine
Hai khẩu Mosin và Mauser đều nằm trong nhóm Súng trường hạng nặng. Lúc đó, cỡ súng này là vũ khí chính. Ban đầu Mosin và Mauser đều có phiên bản cạc bin, sau 1930, chúng đều được cải tiến làm ngắn gọn tiếp và đầu Thế chiến II, vẫn là súng chủ lực.
Sau những súng trường không tự động còn lại của thế kỷ XIX, đến đầu thế kỷ XX xuất hiện súng trường bán tự động. Có nhiều cơ chế vận hành súng tự động, lấy năng lượng từ phát đạn. Ví dụ: lùi dài, lùi ngắn, lùi dùng khối quán tính, trích khí hành trình, trích khí xung. Súng trường bán tự động dùng năng lượng phát nổ để tháo vỏ, nạp viên khác và lên cò, nhưng chỉ bắn phát một. Khẩu Fedorov Avtomat bắn đạn 8,5 g đi 860 m/s, thiết kế năm 1911, đến thế chiến 1 dùng băng đạn tháo được, nhưng sản xuất rất ít (25 ngàn khẩu) do những khó khăn về đạn, tuy vậy, nó vẫn là khẩu súng trường tự động đầu tiên được chấp nhận quy mô lớn. Fedorov Avtomat dùng cơ chế lùi ngắn. Sau này, súng trường tự động thường dùng trích khí, khóa nòng xoay. Hồi đầu Thế chiến 2 có SVT-38, SVT-40. Phía Mỹ có khẩu M1 Garand khóa dùng nòng trích khí then xoay, nhưng vẫn dùng kẹp đạn, thiết kế đầu những năm 1930, đưa vào trang bị 1937.
Phần lớn các Súng trường bán tự động sau Thế chiến II đều có cấu tạo và tính năng lai súng trường cỡ lớn-trung liên và thường có trong biên chế cấp tiểu đội. Nhưng trong Chechnya-1999, Nga có xun hướng tách riêng các chức năng này. Nguyên nhân chính là do súng cá nhân AK-74 có cỡ đạn quá nhỏ (5,54 mm) khó thống nhất với Tiểu liên cỡ lớn (còn được NATO gọi là "súng trường tấn công") như AK-47 và AKM, trong khi chức năng bắn tỉa hiện đại lại yêu cầu tăng kích thức đạn lên đến cỡ trọng liên 12,7mm. Ví dụ: VSSK Vychlop 12,7mm Lưu trữ 2008-04-05 tại Wayback Machine và KSVK 12,7mm Lưu trữ 2005-12-15 tại Wayback Machine
Súng cạc-bin, súng trường nòng ngắn
[sửa | sửa mã nguồn]Khẩu súng trường nòng ngắn đầu tiên là khẩu Remington, xuất hiện trong Chiến tranh miền Tây Hoa Kỳ, được trang bị cho quân đội (trong đó, kỵ binh được trang bị nhiều nhất), cảnh sát và cả dân thường. Tuy nhiên, nó vẫn chưa có được tính ưu việt của các khẩu cạc-bin sau này do vẫn phải lên đạn bằng tay, mặc dù cơ cấu kéo khóa nòng đã được nhất thể hoá với vòng cò, làm cho xạ thủ lên đạn nhanh và dễ dàng hơn. Súng cạc-bin ra đời đầu thế kỷ XX có chiều dài nhỏ súng trường, có thể dùng cùng loại đạn với súng trường gọi là cạc-bin, trong tiếng Việt từ này xuất xứ tiếng Pháp. Sau "súng trường cỡ lớn" thì cạc-bin lên ngôi làm vũ khí chính của bộ binh do nó gọn nhẹ hơn, người lính mang được nhiều đạn hơn và đặc biệt là bắn nhanh hơn nhời cơ cấu nạp đạn và điểm hỏa bán tự động. Hồi đầu thế chiến 2, những súng trường tự động và súng máy nhỏ xuất hiện nhiều, tỏ ra ưu thế. Khẩu Cạc-bin M1, sau được cải tiến thành Cạc-bin M2 và Cạc-bin M3. Khẩu Cạc-bin M4, phiên bản nhỏ gọn của súng trường M16A2) là những ví dụ về súng cạc-bin.
Có tên tiếng Anh là: Sub-machine gun (Súng máy cỡ nhỏ - SMG); là vũ khí cá nhân tầm gần, thuộc họ súng máy; tầm bắn lý thuyết có thể đến 500 m (K-50, Thompson, M3, Tull) nhưng cự li sát thương có hiệu quả không quá 300 m, có loại chỉ 100 m (M3); cỡ nòng từ 5,56 mm (M16) đến 12 mm (M3), phổ biến nhất là hai cỡ nòng 5,56 mm (tiêu chuẩn NATO) và 7,62 mm (tiêu chuẩn khối Vacsava). Do cấu tạo trích khí gián tiếp hoặc trực tiếp để lùi khóa nòng phối hợp với lò xo đẩy đạn, lò xo hồi khóa nòng để nạp đạn tự động, tiểu liên có thể bắn từng phát hoặc bắn liên tục. Tốc độ bắn trong thử nghiệm súng có thể đạt 600 phát/phút. Tốc độ bắn trong thực tế chiến đấu khoảng 100 phát/phút. Hộp tiếp đạn có thể chứa từ 20 đến 40 viên. Một số loại tiểu liên cỡ lớn (AK-47) có thể lắp lưỡi lê để có thể giáp lá cà. Trong chiến đấu, tiểu liên tạo mật độ hỏa lực cao khi tấn công bằng cách bắn rải, bắn quét. Trong phòng ngự, tiểu liên phát huy độ chính xác khá cao khi bắn điểm xạ (2 đến 3 phát liên tục).[7]
Có tên tiếng Anh: Light Machine Gun (Súng máy hạng nhẹ - LMG), là vũ khí cá nhân chủ yếu của bộ binh, được NATO gọi là "Súng trường tấn công" (do tên lóng bằng tiếng Anh là assault rifle). Tên này được nước Đức đặt ra, yêu cầu của họ là người bộ binh có hỏa lực mạnh. Do có uy lực gần bằng súng trường và sử dụng được đạn súng trường nên người ta còn gọi nó là súng trường tự động.
Trong các súng bộ binh thì súng này có nòng dài, chỉ ngắn hơn súng trường bán tự động và súng trường hạng nặng một chút, kết hợp các ưu thế của súng trường và súng máy nhỏ, tầm bắn hiệu quả đến 400 mét. Những súng trường trước đây có thể sát thương ở rất xa, nhưng hiệu quả xạ kích thấp, ngay cả ở tầm bắn gần do tốc độ bắn chậm. Đến sau thế chiến 2, tiểu liên cỡ lớn đã hoàn thiện. Lúc này đã có vỏ đạn hình côn chống tắc, dùng khe móc thay cho gờ móc với băng đạn cong tháo lắp nhanh, khóa nòng then xoay và lên đạn tự động bằng trích khí (trích một dòng khí từ nòng đẩy piston máy nạp đạn). Để phát bắn đầu tiên chính xác, các súng trường tấn công đều bắn khi nòng đã khóa, người thiết kế phải tính cân bằng súng để ổn định khi bắn. Để tiết kiệm đạn, súng cho phép chọn giữa các chế độ bắn: AK có hai chế độ chọn bắn từng phát và liên thanh, M16 có chế độ chọn bắn 3 viên và liên thanh. Do điều kiện tác chiến, bộ binh Việt Nam đã hoàn thiện chế độ bắn hai viên liên tiếp cho súng AK, được gọi là kỹ năng điểm xạ, dựa vào kỹ thuật bóp và nhả cò nhanh và vừa đủ của xạ thủ. Các tiểu liên cỡ lớn đều có thể thay băng đạn nhanh chóng. Bằng kinh nghiệm chiến tranh, người Đức chế ra MP44, còn gọi là StG 44 (súng bão 44). Năm 1943, người thợ làm súng ba đời Kalashnikov kết hợp với kinh nghiệm chiến trường chế ra hai mẫu AK-1 và AK-2 khi ông bị thương và đang nằm viện. Đến năm 1947, ông hoàn thiện và trình làng khẩu Avtomat Kalashnikov 1947 (AK-47). Khẩu súng đã được Hội đồng quốc phòng Liên Xô duyệt và trang bị cho Quân đội Xô Viết từ năm 1949. Sau đó, người Mỹ đưa ra M16. Sau này, M16 có nhiều cải tiến cho ra đời khẩu AR-15 (tiểu liên cực nhanh), có một số chế độ làm việc giống với ưu thế của AK-47, như bắn tiết kiệm đạn, ổn định, tin cậy. Thời điểm diễn ra những cải tiến này khoảng 1970. Tuy nhiên, không khẩu súng nào thành công như AK-47.
Người Đức đã thiết kế STG45 ngay trong Thế chiến 2 nhưng không kịp trang bị, sau này Tây Ban Nha mua bản quyền STG45 chế ra khẩu CETME những năm 1950, khẩu SIG 510 Thụy Sĩ cũng theo mẫu này nhưng dùng vật liệu mới. Các súng này dùng cơ chế làm chậm lùi hãm cho khóa nòng. Cơ chế lùi khóa nòng này dùng đòn bẩy tăng tốc dộ khối lùi, giảm khối lượng. Kỹ sư Youriy Alexandrov người Nga đưa ra mẫu khóa nòng mới là Balanced Automatics Recoil System (BARS, hệ thống lùi tự động cân bằng) đầu những năm 1970. Hệ thống này gọn nhẹ, bắn nhanh, êm, ít thay đổi hướng súng khi bắn liên thanh, dần dần thay cho kiểu khóa nòng trích khí ngang của AK-47. Khẩu súng đầu tiên dùng kiểu này là AL-7 nhưng không được duyệt sử dụng, AK-107 dùng khóa nòng lùi này.
Ngày nay, tiểu liên cỡ lớn phát triển theo xu hướng dùng đạn đường kính nhỏ, tăng sơ tốc, tăng tốc độ bắn vừa phải, hoạt động cân bằng ổn định. Nhờ đó tăng khả năng sát thương và bắn trúng, tăng uy lực súng mà giảm được khối lượng súng đạn bộ binh mang theo. Cỡ đạn hay dùng là 5,45x39 mm Nga; 5,8×42 Trung Quốc; 5,56x45 mm NATO. Những đại diện của súng trường tấn công ngày nay là AK-107 đạn Nga, AK-108 đạn NATO (giống hệt AK-107), M16 Mỹ, các phiên bản M16A2, M16A3 M16A4, SIG 510 Thụy Sĩ xuất xứ từ STG45, FAMAS của Pháp (dùng khối lùi đòn bẩy làm chậm cũng làm cho súng nhẹ hơn như khối lùi then ngang làm chậm) và QBZ-95 Trung Quốc, sao chép FAMAS Pháp, bắn đạn Trung Quốc. M4 cạc bin Mỹ, tức M16A2 phiên bản nhỏ gọn, là loại cạc bin được sử dụng như súng trường tấn công. Trong các súng trường tấn công hiện đại đó, ngày nay chỉ còn người Mỹ giữ khóa nòng xoay trích khí.
Các tiêu chuẩn đặt ra cho tiểu liên cỡ lớn ngày nay là:
- Tầm bắn hiệu quả từ 300 mét trở lên.
- Chọn 2 đến 3 chế độ bắn.
- Tiết kiệm đạn ở chế độ bắn chậm.
- Uy lực mạnh ở chế độ bắn nhanh.
- Xạ thủ mang được nhiều đạn.
- Độ tin cậy cao, bền, dễ sử dụng khi chiến đấu.
Có tên tiếng Anh là Medium Machine Gun (Súng máy hạng trung - MMG); là vũ khí cá nhân tầm trung, thuộc họ súng máy, có chân chống đỡ nòng súng hình chữ A có thể gập lại dọc thân súng; cự li sát thương có hiệu quả đến 1000 m, tầm bắn lý thuyết có thể đạt 3000 m; cỡ nòng từ 5,56 mm đến 8 mm. Trọng lượng trung liên lớn hơn tiểu liên, thông thường từ 6 đến 10 kg. Khi trang bị cho bộ binh, trung liên chỉ cần một người sử dụng. Nó cũng có thể được gắn trên mô tô, ô tô, xe bọc thép, máy bay, trực tăng chiến đấu nhưng không phổ biến vì tầm hỏa lực hạn chế. Trung liên chỉ bắn liên thanh, không thể bắn từng phát (trừ trường hợp người bắn nạp đạn từng viên bằng tay). Riêng loại RPK có chế độ bắn giống như AK-47. Tốc độ bắn tối đa trong thử nghiệm đạt 750 phát/phút. Tốc độ bắn trong thực tế chiến đấu từ 150 đến 250 phát/phút. Với mật độ hỏa lực cao, trung liên được sử dụng phổ biến tạo hỏa lực yểm hộ cấp tiểu đội, trung đội.[8]
Mẫu súng trung liên M1918 (thường gọi là V-3) là một trong các mẫu đầu tiên. Nó được trang bị cho quân đội Hoa Kỳ trong chiến tranh thế giới thứ hai để dùng làm súng hỏa lực cấp trung đội. Khi mới ra đời, các mẫu súng trung liên đều có loại đạn riêng. Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, để nhất thể hóa các cỡ đạn dùng cho các loại súng bộ binh cá nhân, các loại trung liên dùng chung đạn với súng trường và súng tiểu liên lần lượt ra đời. Các loại RPD, RPK của Liên Xô dùng chung đạn với AK-47, CKC và K-63. Đặc biệt, RPK và AK-47 có thể dùng chung hộp đạn (cả tròn và dài) mà không càn chuyển đạn do cấu tạo của cụm gắn kết hộp đạn - thân súng giống hệt nhau.
Súng bắn tỉa
[sửa | sửa mã nguồn]Súng bắn tỉa được chế tạo công phu, chính xác. Vì kỹ thuật phát triển mà ngày nay súng trường và súng bắn tỉa đi theo hai hướng ngược nhau, súng bắn tỉa thì đạn to, súng trường ngược lại đạn nhỏ. Trước đây, thường hay lấy súng trường chiến đấu làm súng bắn tỉa. Ví dụ là khẩu súng nổi tiếng của chiến tranh Việt Nam SVD, bất kể là ta hay địch, đều quý khẩu này như vàng và vồ lấy mỗi khi gặp. SVD bắn đạn 7.62×54mmR. Một ưu thế nổi bật của SVD là duy trì độ chính xác rất cao kể cả trong điều kiện dã chiến lâu ngày, cũng như việc hiệu chỉnh súng dễ dàng.
SVD trong thực tế cho thấy một hiện tượng lạ, nữ bắn tỉa tốt hơn nam.
Sau này, các LMG (súng máy hạng nhẹ) có chức năng bắn phát một kiêm chức súng trường chiến đấu, súng bắn tỉa cấp tiểu đội. Súng trường chiến đấu, súng bắn tỉa kiểu này còn được gọi là súng trường tầm xa (viễn tân bộ thương). Ví dụ như trung liên RPK, hiểu chính xác hơn đây là súng đa năng kiêm chức hỏa lực tiểu đội + súng trường tầm xa + súng trường chiến đấu. Tuy nhiên, khi cải tiến dùng đạn nhỏ như AK-74.
Cuộc chiến đấu của súng bắn tỉa là cuộc chiến đấu cuối của những súng trường chiến đấu. Các xạ thủ tránh bị phát hiện trong khi đó lại ra sức phát hiện trước đối thủ, ngắm bắn cẩn thận và trang bị súng tầm xa. Một hướng nữa là thiết kế các súng bắn tỉa tàng hình, không phát âm thanh và hồng ngoại. Sau Chechnya 1999, Nga phát triển kiểu súng bắn tỉa công nghệ cao, súng bắn tỉa VSSK Vykhlop 12,7mm không phát âm thanh và hồng ngoại, tốc độ đầu đạn dưới âm 290/s, đầu đạn rất nặng (56gram và 76gram-1170grain) xuyên 16mm thép ở 200 mét, xuyên qua giáp bảo vệ bộ binh cấp 5 Nga ở 100 mét. Súng chỉ dùng cho FSB vì quân khủng bố săn lùng nó gắt gao.
Vũ khí của nhóm bộ binh, súng máy
[sửa | sửa mã nguồn]Hồi thế kỷ XIX người ta cũng đưa ra nhiều loại súng máy. Loại súng máy Gatling có nhiều nòng, động cơ quay các nòng chuyển giữa các máy nạp đạn, nổ đạn, tháo vỏ (ban đầu quay tay). Một loại súng máy thả đáy nòng lùi tự do làm thành khối lùi, dùng năng lượng này chạy máy nạp đạn. Một số súng máy lại dùng khóa nòng hoạt động bằng trích khí, khóa nòng xoay thay then chống. Loại súng máy này cỡ nhỏ, bán đạn súng trường, dùng cho bộ binh hay được gọi là "tiểu liên", thường được dùng cùng chức năng với súng trường tấn công, sau này bỏ đi. Loại súng máy nữa có cấu tạo như súng trường tấn công liên thanh như khẩu đại liên PKMS, trung liên RPK của Nga (cơ cấu khóa nòng xoay giống AK-47). Một loại súng máy trích khí dùng khóa nòng then chống như trung liên RPD, ngày nay dần dần bỏ. Gatling là súng máy dùng động cơ ngoài, ngày nay được cải tiến dùng trích khí, nhiều nòng. Gatling có hậu duệ là khẩu GAU-8 30mm, có thể bắn đạn xuyên giáp mật độ cao, được trang bị cho máy bay chống tăng A-10 (trang bị năm 1975, 1976) nhưng sau đó được thay bởi tên lửa có điều khiển. Trong Chiến tranh Việt Nam có khẩu M61 Vulcan 20mm và M134 7.62mm lắp trên trực thăng.
Loại Gatling đặt trên phương tiện vận chuyển còn được gọi là Minigun, do cỡ đạn quá nhỏ so với cỡ súng. Ví dụ, khẩu cối 82mm chỉ nặng bằng khẩu Galing 20mm.
Năm 1862, Gatling ở Mỹ đưa ra mẫu súng Gatling, nhưng chỉ đến 1890, khi vỏ đạn hoàn thiện thì súng máy Gatling mới thực sự là khẩu súng máy. Hiram Maxim đưa ra súng máy dùng năng lượng phát bắn cuối thế kỷ XIX.
- Đại liên: có tên tiếng Anh là Heavy Machine Gun (Súng máy hạng nặng), là vũ khí cộng đồng tầm xa, thuộc họ súng máy, được đặt trên giá đỡ ba chân, giá đỡ có bánh xe hoặc gắn trên các phương tiện chiến đấu như mô tô, ô tô, xe bọc thép, xe tăng, trực thăng, máy bay chiến đấu. Trọng lượng toàn bộ từ 20 đến dưới 50 kg, cỡ nòng từ 7,62 mm đến 12,7 mm. Tầm bắn tối đa đến 5000 m, cực ly sát thương có hiệu quả từ 1500m đến 3000 m tùy theo loại súng. Súng chỉ bắn liên tục, không bắn được từng phát một. Tốc độ bắn tối đa trong thử nghiệm đạt 800 phát phút, tốc độ bắn trong thực tế chiến đấu từ 150 đến 300 phát phút. Khi sử dụng cho bộ binh, mỗi khẩu đại liên thường cần ít nhất 2 người vận hành. Khi gắn trên các phương tiện chiến đấu, chỉ cần một người vận hành hoặc được tự động hoá vận hành bởi người điều khiển phương tiện. Do có hỏa lực mạnh ở mật độ cao, đại liên thường được dùng làm vũ khí hỏa lực yểm hộ từ cấp trung đội đến cấp tiểu đoàn.[9]
- Trọng liên: Vũ khí cộng đồng tầm xa, cỡ lớn, thuộc họ súng máy; thường gắn trên giá đỡ ba chân, giá đỡ có bánh xe, trên xe kéo (rơ moóc) hoặc trên các phương tiện chiến đấu cơ giới trên bộ, trên mặt nước hoặc phương tiện bay. Trọng lượng toàn bộ từ 28 đến trên 50 kg. Mỗi khẩu có từ 1 đến 4 nòng có thể phát hỏa cùng lúc. Riêng loại M61 Vulcan của Hoa Kỳ có 6 nòng xoay tròn quanh trục thay nhau phát hoả. Cỡ nòng từ 12,7 mm đến 23 mm (trên 23 mm được coi là pháo). Tầm bắn xa nhất có thể đạt 5000m, tầm bắn có hiệu quả từ 2000 đến 4000 m. Tốc độ bắn trong thử nghiệm đạt 550 đến 1000 phát/phút mỗi nòng. Tốc độ bắn trong thực tế từ 100 đến 300 phát/phút mỗi nòng.[10]
Đại liên cơ động. Súng máy gọn nhẹ.
[sửa | sửa mã nguồn]Gọi là súng máy lớn tiếng Anh General purpose machine gun (súng máy đa chức năng) vì đây có lẽ là súng máy lớn mà bộ binh mang được khi đi bộ. Trang bị cho tiểu đội hay trung đội khi đi xe, trang bị cho đại đội khi đi bộ. Súng đại liên PKMS được mang vác bởi một người nhưng vẫn trang bị cho tổ 3 người, mang thêm đạn, nòng thay thế và cảnh giới. Súng này cũng hạn chế tốc độ bắn 1200 phát phút vì bộ binh đi bộ không mang được nhiều đạn. Súng được lắp trên một số xe như hỏa lực chống bộ binh. Ứng dụng rộng rãi trên vai lính đi bộ. Một đại đội bộ binh di bộ Việt Nam trang bị 2 khẩu, do hai tổ 3 người sử dụng.
Trước đây người ta phân ra hai loại LMG và HMG (súng máy nhẹ và súng máy nặng). LMG là các trung liên như trung liên RPK và trung liên RPD, súng máy nặng như đại liên M1910 Maxim, đại liên DS-38, hay trọng liên DShK 1938 12,7mm.
Từ Thế chiến I, người ta thường làm chức năng trung liên LMG chung với súng trường mạnh. Các đơn vị mạnh của Việt Nam những năm 199x hiện đại hóa dần theo hướng Nga. Trung liên RPD trước đây dùng ở trung đội nay bỏ đi, thay vào mỗi tiểu đội một RPK, kiêm chức năng súng trường tấn công tầm xa và trung liên. Tuy nhiên, RPK-74 mang đạn nhỏ và gây ra cuộc tranh cãi bên Nga về chức năng súng trường tấn công, nhất là với bộ binh đi bộ. Ở Chechnya 1999, thấy Nga dùng nhiều súng bắn tỉa KSVK 12,7mm. Tuy nhiên, ở đây là bộ binh cơ giới, vấn đề mỗi lính mang một vài súng không quan trọng.
VSSK Vychlop 12,7mm được chế tạo trên kinh nghiệm Chechnya, một súng trường chiến đấu điển hình, giảm âm giảm nhiệt, có vẻ như Nga đã tách chức năng súng máy ra hoàn toàn.
Minigun. Súng máy hạng nặng. Trọng liên HMG.
[sửa | sửa mã nguồn]HMG viết tắt của Heavy Machine Gun, súng máy hạng nặng, trọng liên.
Trọng liên cơ giới-Minigun
[sửa | sửa mã nguồn]Là súng máy đặt giá cố định. Súng này thoải mái tăng khối lượng súng và tốc độ bắn. M61 Vulcan bắn hỏng được xe cộ nhỏ, tầm xa, bắn nhanh có thể xuyên qua giáp thép dày 2 cm. Súng này chỉ được lắp trên xe, thường sử dụng động cơ điện. Súng Gatling cồng kềnh phức tạp cần chăm sóc nhiều, lực giật rất mạnh do nhịp bắn quá cao không dùng được cho bộ binh. Nó có cỡ nòng quá nhỏ so với khối lượng súng. Súng cũng không có khả năng xạ kích điểm vì 0,5 giây đầu nó bắn rất chậm cho dù tốc độ chung 4000 phát/phút.
Ưu thế của kiểu máy này là động cơ điện và nhiều nòng, tốc độ bắn cao, có thể áp dụng làm mát cưỡng bức, bắn nhiều cỡ đạn... thích hợp cho phương tiện cơ giới. Nga sản xuất các loại bắn đạn 7,62mmx54R và 12,7mm tốc độ bắn lên đến 10000 phát/phút. Tuy vậy, các kiểu máy trích khí vấn được áp dụng cho bộ nòng xoay, gọi là Gatling lai, cho khả năng hoạt động tin cậy và tốc độ khởi động tức thời, khắc phục những nhược điểm của máy Gatling.
Kiểu súng này cũng hay được áp dụng cho các pháo phòng không nhỏ bắn nhanh như AK-130 30mm. GSh-6-23M là loại pháo bắn nhanh nhất thế giới, 23mm, một vạn phát phút, máy trích khí. Những súng này được dùng trê các hệ thống phòng không tầm ngắn và cực ngắn, ngày nay có vai trò quan trọng trong chống đạn tự hành, tạo thành giáp điện tử của tàu chiến và đội hình bộ binh.
Nhiều khẩu G-8 đặt trên máy bay hạng nặng C-130, được hỗ trợ bởi các phương tiện định vị dẫn đường điện tử, có tác dụng như pháo hạm (cũng được gọi là gun ship). Hệ thống này mang được hàng chục tấn đạn dược từ hậu phương trút dữ dội vào mục tiêu. Đây là hệ thống sử dụng trọng liên lớn nhất được chế tạo. Tuy nhiên, số lượng chế tạo không được nhiều và lịch sử tham chiến không mấy vinh quang.
Súng có biệt danh Minigun vì cỡ đạn quá nhỏ so với khối lượng súng. Ví dụ, khẩu Gatling 20mm có khối lượng bằng cối 120mm.
Trọng liên bộ binh, 12,7mm
[sửa | sửa mã nguồn]Ví dụ về 12,7mm: Degtyarev DP-27 LMG 1929, DShK, DShKM-46, NSV-12,7 "Utes", Kord 12,7, Browning M2HB, General Dynamics 12.7mm /.50 XM312. Các súng 12,7mm thường dùng khóa nòng trích khí hay lùi có làm chậm, một số dùng lùi tự do.
Khác với Galing, những khẩu này chỉ có một nòng, tuy khá nặng, cần có tổ 2 đến 3 người mang vác khi hành quân và tác chiến trên bộ. Uư điểm của nó là có thể tháo nòng súng và thay nòng dự bị rất nhanh chóng.
Trọng liên 12,7mm có tầm bắn tối đa đến 7–8 km, tầm bắn hiệu quả đến 5 km, bắn được xuyên qua các vỏ xe, kể cả một số loại xe có giáp ở tầm hàng km. Súng cũng bắn xuyên qua vỏ nhiều loại công sự. các loại trọng liên dòng Degtyarev thường được sử dung để bắn máy bay tầm thấp.
Trọng liên 12,7mm thường được dùng làm hỏa lực cấp đại đội và tiểu đoàn bộ binh và lính thủy đánh bộ. Khi súng được lắp trên các xe cơ giới, nó cần ít phương tiện bảo đảm. Đây là mặt ưu việt hơn nhiều so với Gatling có cấu tạo phức tạp và phải có nguồn điện để điểm hoả. Các xe tăng Liên Xô, Nga và phương Tây đa phần sử dụng 12,7mm làm súng phụ gắn trên tháp pháo hoặc súng đồng trục với pháo tăng được bắn từ trong tháp pháo.
Khẩu DShK (bên phải) và các hậu duệ của nó được dùng nhiều ở Việt Nam. Ngoài ra, người Việt Nam còn sử dụng nhiều súng Browning chiến lợi phẩm. Về cuối cuộc chiến, người Việt Nam còn được viện trợ và sử dụng khẩu Degtyarov - Shpagin DShKM 12,7 mm Lưu trữ 2005-04-08 tại Wayback Machine có khóa nòng kiểu trống xoay, phần khóa nòng giống Gatling nhưng dùng chung một nòng cho nhẹ.
Một số loại súng nhỏ thông dụng. Súng ngắn bắn nhanh, tiểu liên, trung liên.
[sửa | sửa mã nguồn]Súng ngắn gọn nhẹ nhưng năng lực yếu, thường dùng cho sĩ quan hay cảnh sát. Hiện nay, loại súng ngắn phản lực đã thay thế súng ổ quay.
Súng máy nhỏ SMG, Sub-Machine gun, súng ngắn bắn nhanh, có kích thước nhỏ, uy lực tầm gần lớn, hay dùng cho đặc nhiệm. Nó hay bị nhầm với tiểu liên, là súng máy cá nhân trước đây biên chế trong tiểu đội, khi mà các súng chủ lực là súng trường bắn phát một hoặc cạc bin, ví dụ về tiểu liên là AR-16 và M-16. Tiểu liên ngày nay thường được chỉ các súng trường tấn công.
Súng máy nhẹ LMG, Light Sub Machine gun, thường được dùng như là súng hỏa lực cấp trung đội trước đây, này được dùng ở cấp tiểu đội và tổ. Súng này thường được dùng với tên cũ súng liên thanh trung đội, trung liên. SMG dùng đạn súng ngắn còn LMG dùng đạn súng trường. Nhiều khẩu cạc bin của súng trường như AK-74U, cạc bin của AK-74, tác dụng rất giống SMG.
Súng chống tăng và Súng trường chống tăng:Là vũ khí dùng hỏa lực mạnh mục đích phá hủy giáp của xe tăng cũng như tiêu diệt các đơn vị tăng thiết giáp của đối phương. Hay phá hủy công sự hay đồn bốt của đối phương hay tiêu diệt sinh lực địch với sức công phá mạnh.
Súng phóng lựu: là súng dùng để phóng lựu đạn thay vì dùng tay ném lựu đạn.
súng cối: là một loại trong bốn loại hoả pháo cơ bản của pháo binh (pháo nòng dài, lựu pháo, pháo phản lực và súng cối).
Cơ cấu dạng súng trong bom nguyên tử
[sửa | sửa mã nguồn]Bom nguyên tử có cấu tạo cơ bản gồm 2 khối kim loại phóng xạ được làm giàu có khối lượng mỗi khối thấp hơn khối lượng tới hạn. Để kích nổ bom nguyên tử, người ta dùng hai cơ cấu có dạng như súng để bắn một trong hai khối này nhập làm một với khối kia, làm cho khối lượng toàn bộ kim loại phóng xạ đó lớn hơn khối lượng tới hạn, phản ứng hạt nhân bắt đầu diễn ra và bom nguyên tử phát nổ.
Vai trò
[sửa | sửa mã nguồn]Đến nay, súng vẫn là vũ khí chính trên chiến trường. Súng giành được điều đó từ đầu Thế kỷ XIX, thay thế vai trò của thương, giáo.
Ngày nay, tên lửa và đạn tự hành xuất hiện nhiều. Có những vị trí đạn tự hành hoàn toàn ưu thế so với súng như chống tàu biển, chống máy bay, mang đầu đạn chiến lược, bắn từ máy bay... Nhưng vũ khí chủ yếu hiện nay vẫn là súng.
Xem thêm
[sửa | sửa mã nguồn]- Súng lục
- Súng ngắn phản lực
- Súng shotgun
- Súng trường
- Súng tay
- Súng cối
- Súng tiểu liên
- Súng trung liên
- Súng đại liên
- Súng máy
- Súng chống tăng
- Súng phóng lựu
- Phản ứng hạt nhân
- Bom nguyên tử
- Danh sách các loại súng
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Từ điển Bách khoa Việt Nam. Tập 3 (N-S). Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa. Hà Nội. 2003. trang 821
- ^ Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam 2004. tr. 875-876.
- ^ Đông Nguyễn, Kaovjets Ngujens (2003). Lôi Động, Tinh Phi. NXB Dân Trí. tr. 34.
- ^ Đông Nguyễn, Kaovjets Ngujens (2003). Lôi Động, Tinh Phi. NXB Dân Trí. tr. 21.
- ^ Từ điển Bách khoa Việt Nam (N-S). Nhà xuất bản Từ điển bách khoa. Hà Nội. 2003. trang 415.
- ^ Từ điển Bách khoa Việt Nam (N-S). Nhà xuất bản Từ điển bách khoa. Hà Nội. 2003. trang 416-417.
- ^ Từ điển bách khoa Việt Nam. Tập 4 (T-Z). Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa. Hà Nội. 2005. trang 409.
- ^ Từ điển bách khoa Việt Nam. Tập 4 (T-Z). Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa. Hà Nội. 2005. trang 615.
- ^ Từ điển bách khoa Việt Nam. Tập 1 (A-M). Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa. Hà Nội. 1995. trang 717.
- ^ Từ điển bách khoa Việt Nam. Tập 4 (T-Z). Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa. Hà Nội. 2005. trang 601.