[go: up one dir, main page]

Bước tới nội dung

Maruv

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Maruv
Korsun trong vai trò ca sĩ chính của The Pringlez vào năm 2015
SinhHanna Borysivna Popeliukh
15 tháng 2, 1991 (33 tuổi)
Pavlohrad, Xô viết Ukraina, Liên Xô
Sự nghiệp âm nhạc
Thể loại
Nghề nghiệp
  • Ca sĩ
  • nhạc sĩ sáng tác bài hát
  • nhà sản xuất nhạc
Năm hoạt động2013–nay
Hãng đĩa
Websitemaruvofficial.com

Hanna Borysivna Korsun (tiếng Ukraina: Ганна Борисівна Корсун; nhũ danh Popeliukh [Попелюх]; sinh ngày 15 tháng 2 năm 1991), hay còn nghệ danh là Maruv (toàn bộ in hoa) là một nữ ca sĩ người Ukraina. Cô từng là thành viên của ban nhạc cùng tên, kế thừa ban nhạc The Pringlez, hoạt động từ tháng 2 năm 2017 đến tháng 3 năm 2018. Sau đó, Korsun nhận lời một phỏng vấn và giải thích rằng từ lúc ấy trở đi, cô sẽ hoạt động độc lập dưới nghệ danh này.[2]

Cuộc đời và sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Những năm đầu đời và The Pringlez

[sửa | sửa mã nguồn]

Popeliukh sinh ra với tên gọi Anna Popeliukh tại thành phố Pavlohrad của Ukraina. Ở trường, cô học nhạc và vũ đạo. Năm 2014, cô tốt nghiệp chuyên ngành không liên quan đến âm nhạc ở Viện bách khoa Kharkiv. Tuy vậy, Popeliukh đã tham gia và lọt đến trận chung kết của cuộc thi Holos Krainy. Cô đã kết hôn với Oleksandr Korsun, hai người gặp nhau khi còn học ở Viện bách khoa. Oleksandr là nhà quản lý bộ phận tiếp thị của The Pringlez. Đội hình của nhóm gồm một tay trống, các nghệ sĩ guitar, một nhạc sĩ sáng tác bài hát, một nhiếp ảnh gia và kỹ sư âm thanh.

Năm 2015, nhóm đại diện cho Ukraina tham dự cuộc thi New Wave. Ngoài ra một bài hát của họ là "Easy to Love" đã dự thi đại diện Ukraina để dự Eurovision 2016.[3]

2017: Đổi tên thành Maruv và album đầu tiên

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2017, ban nhạc đổi tên thành Maruv. Ngoài ra, các thành viên quyết định thay đổi chủ đề trong tác phẩm của họ. Tên nhóm cũ trong quá khứ bị giữ lại, cả phong cách biểu diễn pop-rock cũng vậy. Họ quyết định bỏ lại sức sáng tạo "tuổi thiếu niên" và chuyển sang phong cách hiện đại và phổ biến. Tháng 5 năm 2017, ban nhạc phát hành album đầu tay mang tên Stories. Tác phẩm gồm bảy bài được sáng tác bằng ba thứ tiếng – tiếng Anh, tiếng Nga và tiếng Ukraina. Ngày 23 tháng 9 năm 2017, ban nhạc trình bày album tại một buổi hòa nhạc ở quê nhà Kharkiv.[3]

2017–2018: Maruv & Boosin và Black Water

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2017, Korsun gặp nghệ sĩ guitar kiêm DJ và nghệ sĩ biểu diễn Mikhail Busin (hay còn có nghệ danh là BOOSIN). Sau đấy, Korsun và Busin đồng lập nên hãng thu âm có tên Zori Sound. Họ nhận ra giọng của họ rất hợp nhau và quyết định hợp tác tiếp với nghệ danh Maruv & Boosin. Ca khúc đầu tiên mà họ hợp tác thực hiện là "Spini". Sau đó họ cùng thu ca khúc hợp tác thứ hai mang tên "Drunk Groove" - bài hát trở nên nổi tiếng, thậm chí lọt vào các bảng xếp hạng ở nước ngoài. Tác phẩm được phát hành vào ngày 15 tháng 12 năm 2017. Korsun là tác giả phần lời, còn Busin phụ trách phần nhạc.

Maruv trình bày bài "Drunk Groove" tại buổi lễ khai mạc Muz-TV 2018. Ngày 10 tháng 6, họ tổ chức một buổi hòa nhạc ở Moskva để đánh dấu khai mạc giải vô địch bóng đá thế giới 2018. Tiết mục được tổ chức trên Sparrow Hills.[3] Ngày 30 tháng 7 năm 2018, họ phát hành đĩa đơn tiếp nối đĩa đơn đầu tiên "Drunk Groove", lấy tựa là "Focus on Me".[4] Đây là đĩa đơn thứ hai của nhóm trích từ album Black Water, còn album được phát hành dưới dạng visual album vào ngày 28 thán 9 năm 2018.[5]

2019–nay: Eurovision Song Contest và rút lui

[sửa | sửa mã nguồn]
Maruv vào năm 2019

Ngày 23 tháng 2 năm 2019, Maruv đã giành chiến thắng trận chung kết Vidbir để dự Eurovision Song Contest 2019 .[6] Chức vô địch của vô đã bị hủy hoại bởi tranh cãi về các buổi hòa nhạc ở Nga.[7] Tác quyền của bài hát "Siren Song" mà cô trình bày ở Eurovision thuộc về hãng thu âm Warner Music của Nga,[8][9] nên hãng đã tổ chức buổi hòa nhạc solo đầu tiên của cô tại Moskva ở Izvestia Hall vào ngày 6 tháng 4 năm 2019.[10] Sau khi nguồn tin làm rõ cô sẽ trình diễn ở hai buổi hòa nhạc tại Nga ở những tháng tiếp theo, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ văn hóa Vyacheslav Kyrylenko phát biểu rằng các nghệ sĩ đi tour ở Nga hoặc "không công nhận chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Ukraina" thì không nên tham dự Eurovision.[7]

Trong trận chung kết, trên sân khấu khi được hỏi rằng Krym có thuộc địa phận của Ukraina, cô đáp là có.[11][12] Và khi được hỏi liệu Nga có phải kẻ xâm lược không, cô đáp: "Nếu đất nước có một vị tổng thống tệ hại, thì không có nghĩa là mọi người dân sống ở đó là ác quỷ".[13] Sau show ấy, khi kênh Channel 24 của Ukraina mời cô miêu tả sự việc xảy ra ở Donbass và lập trường của cô về sự việc, cô đáp:

Ngày 24 tháng 2 năm 2019, Công ty phát sóng nhà nước quốc gia Ukraina (UA:PBC) đã đề nghị Maruv một bản hợp đồng, kèm một điều khoản cấm cô tổ chức hòa nhạc ở Nga.[14][7] Maruv thấy biểu diễn ở Nga chẳng gây hại gì: "biểu diễn hòa nhạc là cách tôi đem lại hòa bình," sau đấy cô xác nhận mình sẵn sàng hoãn tổ chức hòa nhạc.[7] Maruv cho biết vấn đề đi tour ở Nga không quan trọng với cô, bất đồng lớn về những điều khoản khác trong hợp đồng mới khiến cô miêu tả đó là một âm mưu. Cô chia sẻ rằng cô là công dân Ukraina có trả thuế và thực sự yêu nước, song cô không sẵn sàng biến việc tham dự cuộc thi thành "hành động tuyên truyền của các chính trị gia Ukraina". Cô phát biểu: "Tôi là một nhạc sĩ, chứ không phải cây gậy bóng chày trong giới chính trị".[15]

Ngày hôm sau, một nguồn tin tiết lộ rằng UA:PBC và Maruv không đạt được thỏa thuận để tham dự cuộc thi.[16] Do tranh cãi ấy mà Ukraine rút lui quyền tham gia Eurovision 2019.[17] "Siren Song" trở thành bài hit lớn ở các quốc gia khối CIS, và sở hữu ba lần giành đĩa bạch kim ở Nga.[18] Ngày 29 tháng 11 năm 2019, cô phát hành đĩa EP mang tên Hellcat Story.[19]

Năm 2020, Maruv giới thiệu bản thể khác là Shlakoblochina và phát hành đĩa EP Fatality dưới cái tên này.[20] Cô còn thu thanh ca khúc "More" bằng tiếng Nga cho trò chơi video Liên Minh Huyền Thoại.[21]

Đời tư

[sửa | sửa mã nguồn]

Anna Korsun đã kết hôn.[3] Ngày 15 tháng 2 năm 2022, Korsun thông báo qua mạng xã hội rằng cô đang mang bầu đứa con đầu lòng.

Danh sách đĩa nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]

Album phòng thu

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Stories (2017)
  • Black Water (2018)
  • No Name (2021)
  • Killing Me Softly (2023)
  • Hellcat Story (2019)
  • Fatality (2020) (đề tên Shlakoblochina)

Đĩa đơn

[sửa | sửa mã nguồn]
Danh sách đĩa đơn với vai trò nghệ sĩ chính, cùng vị trí xếp hạng và chứng nhận chọn lọc, năm phát hành và tên album
Tựa Năm Vị trí xếp hạng cao nhất Chứng nhận Album
Ukraina
[22]
Bulgaria
[23]
CIS
[24]
Litva
[25]
Ba Lan
[26]
Nga
[27]
"Сонце" 2017 Stories
"Let Me Love You"
"Спини" Đĩa đơn không nằm trong album
"Drunk Groove"
với Boosin)
1 8 1 8 1 Black Water
"Focus on Me" 2018 1 2 1
"Black Water" 112
"For You"
với Faruk Sabanci)
57 43 44 Đĩa đơn không nằm trong album
"Siren Song" 2019 2 1 70 2
"Mon Amour"
với Mosimann)
64 56
"Mezhdu nami" 225
"To Be Mine" Hellcat Story
"Don't Stop"
"Don't U Waste My Time"
"If You Want Her"
"Novaya sila kiski"
(đề tên Shlakoblochina featuring Fearmuch)
2020 Fatality
"Samoletnaya"
(đề tên Shlakoblochina)
"I Want You" 4 3 Đĩa đơn không nằm trong album
"Sad Song" 10 6
"More"
"Est tolko mig"
với Danya Milokhin)
"Maria"
"VIP"
(đề tên Shlakoblochina)
2021
"Crush"
"Call 911"
với Sickotoy)
91 81
"Komilfo"
với Filipp Kirkorov)
632
"Candy Shop" 248
"No More"
với Filipp Kirkorov)
"Rich Bitch" No Name
"Bullet"
với The Hatters)
549
"Ne zabudu"
"Shpok Shpok"
(đề tên Shlakoblochina)
Đĩa đơn không nằm trong album
"Yolochka"
(đề tên Shlakoblochina với Boosin)
"Proshchay" 45
"—" chỉ đĩa đơn không lọt vào bảng xếp hạng hoặc không được phát hành.

Đề cử và giải thưởng

[sửa | sửa mã nguồn]
Giải thưởng Năm[a] Người/tác phẩm đề cử Hạng mục Kết quả Tham khảo
Giải âm nhạc M1 2018 Chính cô Nghệ sĩ alternative xuất sắc nhất Đề cử [29]
Nghệ sĩ đột phá của năm Đề cử
"Drunk Groove" Diễu hành vũ đạo Đoạt giải
2019 "Siren Song" Diễu hành vũ đạo Đề cử [30]
Giải thưởng Âm nhạc MTV Châu Âu 2019 Chính cô Nghệ sĩ Nga trên MTV xuất sắc nhất Đoạt giải [31]
Giải âm nhạc Yuna 2019 Chính cô Nghệ sĩ đột phá của năm Đoạt giải [32]
Black Water Album xuất sắc nhất Đề cử
Maruv & Boosin Song ca xuất sắc nhất Đoạt giải
"Drunk Groove" Video xuất sắc nhất Đề cử
Bài hát ngoại ngữ xuất sắc nhất Đoạt giải
Bài hát nhạc điện tử xuất sắc nhất Đoạt giải
2020 Chính cô Nghệ sĩ trình diễn xuất sắc nhất Đề cử [33][34]
"Siren Song" Bài hát ngoại ngữ xuất sắc nhất Đề cử
Bài hát nhạc điện tử xuất sắc nhất Đoạt giải
2021 "I Want You" Bài hát nhạc điện tử xuất sắc nhất Chưa công bố [35]
Giải âm nhạc văn hóa 2020 "Sad Song" Bài hát tiếng Anh xuất sắc nhất Chưa công bố [36]
Novoye Radio Awards 2021 Chính cô Nghệ sĩ nữ xuất sắc nhất Chưa công bố [37]
Giải video âm nhạc Berlin 2022 Candy Shop Tác phẩm dở nhất Đoạt giải [38]
Ghi chú
  1. ^ Ghi năm trao giải. Từng năm được liên kết đến bài viết về lễ trao giải năm ấy.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Maruv – Home Page”. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2018.
  2. ^ “Maruv & Boosin”. 5 tháng 4 năm 2018.
  3. ^ a b c d "MARUV & BOOSIN who is it?". Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2018.
  4. ^ "MARUV singles". Tophit. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2018.
  5. ^ "Black Water album". iTunes. 28 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2018.
  6. ^ Van Lith, Nick (23 tháng 2 năm 2019). “Maruv wins Vidbir 2019 and will represent Ukraine with "Siren Song". escxtra.com. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2019.
  7. ^ a b c d “Ukraine's Maruv wins Eurovision national selection, sparking controversy (VIDEO)”. Kyiv Post (bằng tiếng Anh). 24 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2019.
  8. ^ “Права на пісню MARUV для Євробачення належать російській компанії – соцмережі (фото) – новини суспільства”. УНІАН. 24 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2019.
  9. ^ “Maruv выпустила песню для "Евровидения" (Слушать)”. 13 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2019.
  10. ^ “Maruv готовит первый сольник в Москве”. 21 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2019.
  11. ^ Wesolowsky, Tony (26 tháng 2 năm 2019). “Out Of Tune With Ukraine? 'Unpatriotic' Pop Diva Dropped From Eurovision”. Radio Free Europe/Radio Liberty (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2020.
  12. ^ “MARUV о войне в Донбассе, "русский мир" проник в украинские выборы – топ-5 видео недели”. Channel 24. 24 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2019.
  13. ^ “Out Of Tune With Ukraine? 'Unpatriotic' Pop Diva Dropped From Eurovision”. Radio Free Europe. 26 tháng 2 năm 2019.
  14. ^ “Никаких гастролей по России: MARUV поставили условие для участия в Евровидении-2019”. Lifestyle 24. 24 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2019.
  15. ^ “То, как поступили с Maruv – образец того, что собираются сделать на выборах”. strana.ua (bằng tiếng Ukraina). 25 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2024.
  16. ^ Agadellis, Stratos (25 tháng 2 năm 2019). “Ukraine: MARUV will not fly to Tel Aviv; country's Eurovision act unknown”. ESCToday. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2019.
  17. ^ Savage, Mark (27 tháng 2 năm 2019). “Ukraine's Eurovision woes deepen” (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2019.
  18. ^ a b “Siren Song Maruv стала платиновой”. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2020.
  19. ^ "Hellcat Story – EP" (Maruv)”. Apple Music. 29 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2020.
  20. ^ “MARUV: "Старые вещи отдаю родне и подругам". StarHit (bằng tiếng Nga). Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2020.
  21. ^ @Lol_CIS (31 tháng 10 năm 2020). “Кавер на песню MORE в исполнении MARUV только что прозвучал на трансляции финала”. Twitter.
  22. ^ “Top City & Country Radio Hits — Top Week Hits (Ukraine) — TopHit Music Charts”. TopHit. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2020.
  23. ^ “Архив класации | ПРОФОН”. www.prophon.org.
  24. ^ “Maruv – Listen All Songs”. Tophit. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2020.
  25. ^ “Savaitės klausomiausi (TOP 100)”. LIT. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2020.
  26. ^ Peak chart positions for singles in Poland:
  27. ^ “Top City & Country Radio Hits — Top Week Hits (Russia) — TopHit Music Charts”. TopHit. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2020.
  28. ^ “Albums and singles certified Platinum in 2019”. Polish Society of the Phonographic Industry. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2019.
  29. ^ "M1 Music Awards. 4 сезони": названо найкращих у 2018 році українських виконавців”. m1.tv (bằng tiếng Ukraina). 2 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2019.
  30. ^ “М1 MUSIC AWARDS 2019: СПИСОК НОМІНАНТІВ НА ПРЕМІЮ...”. novy.tv (bằng tiếng Ukraina). 28 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2019.
  31. ^ “THESE ARE THE BIG WINNERS AT THE 2019 MTV EMA”. mtvema.com. 3 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2019.
  32. ^ “Стали відомі номінанти музичної премії YUNA-2019”. Slukh (media) (bằng tiếng Ukraina). 18 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2019.
  33. ^ “Премія YUNA-2020 оголосила номінантів: дивіться список і слухайте плейліст”. slukh.media (bằng tiếng Ukraina). 17 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2019.
  34. ^ “Оголошено перших 4 переможців премії YUNA 2020” (bằng tiếng Ukraina). Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2020.
  35. ^ София Ковнир (9 tháng 12 năm 2020). “Музыкальная премия YUNA 2021: обнародован полный список номинантов”. Обозреватель (bằng tiếng Nga). Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2020.
  36. ^ “Culture Music Awards 2020 / Українські Номінанти” (bằng tiếng Ukraina). Culture Ukraine. 7 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2020.
  37. ^ “Голосуй за номинантов премии "Новое Радио Awards 2021" (bằng tiếng Nga). Новое радио. 10 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2020.
  38. ^ “BMVA 2022 WINNERS – Berlin Music Video Awards” (bằng tiếng Anh). 15 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2023.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]