[go: up one dir, main page]

Bước tới nội dung

Quỹ Tiền tệ Quốc tế

Đây là một bài viết cơ bản. Nhấn vào đây để biết thêm thông tin.
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(Đổi hướng từ International Monetary Fund)

International Monetary Fund
Thành lập27 tháng 12 năm 1945; 78 năm trước (1945-12-27)
LoạiTổ chức quốc tế
Mục đíchCung cấp tư vấn chính sách cho các chính phủ thành viên và các ngân hàng trung ương; cung cấp nghiên cứu, phân tích và dự báo thị trường quốc tế và cá nhân; cho vay các nước thành viên; và các hình thức hỗ trợ hoặc đào tạo khác để giúp các nước quản lý tốt hơn nền kinh tế của mình.
Vị trí
  • Washington DC
Thành viên
190 quốc gia
Giám đốc
Kristalina Georgieva
Trang webhttp://www.imf.org
Tòa nhà trụ sở chính của Quỹ tiền tệ quốc tế tại Washington, D.C.
Số liệu của IMF năm 2006 về danh sách các quốc gia theo tổng sản phẩm nội địa tính theo đầu người.

Quỹ Tiền tệ Quốc tế (tiếng Anh: International Monetary Fund, viết tắt IMF) là một tổ chức quốc tế giám sát hệ thống tài chính toàn cầu bằng cách theo dõi tỷ giá hối đoáicán cân thanh toán, cũng như hỗ trợ kỹ thuật và giúp đỡ tài chính khi có yêu cầu. Trụ sở chính của IMF đặt ở Washington, D.C., thủ đô của Hoa Kỳ.

Tổ chức và mục đích

[sửa | sửa mã nguồn]

IMF được mô tả như "Một tổ chức của 190 quốc gia", làm việc nuôi dưỡng tập đoàn tiền tệ toàn cầu, thiết lập tài chính an toàn, tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại quốc tế, đẩy mạnh việc làm và tăng trưởng kinh tế cao, và giảm bớt đói nghèo. Với ngoại lệ của Bắc Triều Tiên, Cuba, Liechtenstein, Andorra, Monaco, TuvaluNauru, tất cả các nước thành viên của Liên Hợp Quốc tham gia trực tiếp vào IMF hoặc được đại diện cho bởi những nước thành viên khác...

Vào năm 1930, khi hoạt động kinh tế ở những nước công nghiệp chính thu hẹp, nhiều nước bắt đầu áp dụng tư tưởng trọng thương, cố gắng bảo vệ nền kinh tế của họ bằng việc hạn chế nhập khẩu. Để khỏi giảm dự trữ vàng, ngoại hối, một vài nước cắt giảm nhập khẩu, một số nước phá giá đồng tiền của họ, và một số nước áp đặt các hạn chế đối với tài khoản ngoại tệ của công dân. Những biện pháp này có hại đối với chính bản thân các nước đó vì như lý thuyết lợi thế so sánh tương đối của Ricardo đã chỉ rõ mọi nước đều trở nên có lợi nhờ thương mại không bị hạn chế. Lưu ý là, theo lý thuyết tự do mậu dịch đó, nếu tính cả phân phối, sẽ có những ngành bị thiệt hại trong khi các ngành khác được lợi. Thương mại thế giới đã sa sút nghiêm trọng, khi việc làmmức sống ở nhiều nước suy giảm.

IMF đã đi vào hoạt động ngày 27 tháng 12 năm 1945, khi đó có 29 nước đầu tiên ký kết nó là những điều khoản của hiệp ước. Mục đích của luật IMF ngày nay là giống với luật chính thức năm 1944. Ngày 1 tháng 3 năm 1947 IMF bắt đầu hoạt động và tiến hành cho vay khoản đầu tiên ngày 8 tháng 5 năm 1947.

Từ cuối đại chiến thế giới thứ 2 cho đến cuối năm 1972, thế giới tư bản đã đạt được sự tăng trưởng thu nhập thực tế nhanh chưa từng thấy. (Sau đó sự hội nhập của Trung Quốc vào hệ thống tư bản chủ nghĩa đã thúc đẩy đáng kể sự tăng trưởng của cả hệ thống.) Trong hệ thống tư bản chủ nghĩa, lợi ích thu được từ tăng trưởng đã không được chia đều cho tất cả, song hầu hết các nước tư bản đều trở nên thịnh vượng hơn, trái ngược hoàn toàn với những điều kiện trong khoảng thời gian trước của những nước tư bản trong thời kỳ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới.

Trong những thập kỷ sau chiến tranh thế giới hai, kinh tế thế giới và hệ thống tiền tệ có thay đổi lớn làm tăng nhanh tầm quan trọng và thích hợp trong việc đáp ứng mục tiêu của IMF, nhưng điều đó cũng có nghĩa là yêu cầu IMF thích ứng và hoàn thiện cải tổ. Những tiến bộ nhanh chóng trong kỹ thuật công nghệthông tin liên lạc đã góp phần làm tăng hội nhập quốc tế của các thị trường, làm cho các nền kinh tế quốc dân gắn kết với nhau chặt chẽ hơn. Xu hướng bây giờ mở rộng nhanh chóng hơn số quốc gia trong IMF.

Ảnh hưởng của IMF trong kinh tế toàn cầu được gia tăng nhờ sự tham gia đông hơn của các quốc gia thành viên. Hiện IMF có 190 thành viên, nhiều hơn bốn lần so với con số 44 thành viên khi nó được thành lập.

Nguồn vốn của IMF là do các nước đóng góp, các nước thành viên có cổ phần lớn trong IMF là Mỹ (17,46%), Đức (6,11%), Nhật Bản (6,26%), Anh (5,05%) và Pháp (5,05%).

Tổng vốn của IMF là 30 tỷ Dollar Mỹ (1999).

Việt Nam

[sửa | sửa mã nguồn]

Việt Nam Cộng hòa gia nhập Quỹ Tiền tệ Quốc tế năm 1956. Năm 1975 ghế hội viên chuyển cho Cộng hoà Miền Nam Việt Nam kế thừa. Năm 1976 thì CHXHCN Việt Nam chính thức tham gia chiếu theo hội viên của hai quốc gia trước.[1] Hiện nay cổ phần của Việt Nam tại IMF bằng 460,7 triệu SDR, chiếm 0,193% tổng khối lượng cổ phần và có tỷ lệ phiếu bầu là 0,212% tổng số quyền bỏ phiếu. Việt Nam thuộc nhóm Đông Nam Á với 13 nước thành viên.[2]

Giám đốc điều hành

[sửa | sửa mã nguồn]
13 Kristalina Georgieva  Bulgaria 13/09/2019 – Nay
12 Christine Lagarde  Pháp 5/07/2011 - 12/09/2019
11 John Lipsky điều hành  Hoa Kỳ 18/05/2011 - 4/07/2011
10 Dominique Strauss-Kahn  Pháp 1/11/2007 – 18/05/2011
9 Rodrigo Rato  Tây Ban Nha 7/06/2004 – 31/10/2007
8 Horst Köhler  Đức 1/05/2000 – 4/03/2004
7 Michel Camdessus  Pháp 16/01/1987 – 14/02/2000
6 Jacques de Larosière  Pháp 18/06/1978 – 15/01/1987
5 Johan Witteveen  Hà Lan 1/09/1973 – 18/06/1978
4 Pierre-Paul Schweitzer  Pháp 1/09/1963 – 31/08/1973
3 Per Jacobsson  Thụy Điển 21/11/1956 – 5/05/1963
2 Ivar Rooth  Thụy Điển 3/08/1951 – 3/10/1956
1 Camille Gutt  Bỉ 6/05/1946 – 5/05/1951

Quyền bỏ phiếu

[sửa | sửa mã nguồn]

Bên dưới là danh sách 20 nước thành viên IMF có quyền bỏ phiếu nhiều nhất:[3]

Số thứ tự Nước thành viên IMF Phần ngạch: triệu SDRs Phần ngạch: chiếm tỉ lệ phần trăm tương ứng Thành viên của hội xử lí sự vụ Thành viên bổ khuyết của hội xử lí sự vụ Quyền bỏ phiếu (số phiếu) Quyền bỏ phiếu (chiếm tỉ lệ phần trăm tương ứng)
1  Hoa Kỳ 82.994,2 17,68 Steven Mnuchin Jerome Powell 831.396 16,73
2  Nhật Bản 30.820,5 6,56 Tarō Asō Haruhiko Kuroda 309.659 6,23
3  Trung Quốc 30.482,9 6,49 Chu Tiểu Xuyên Dịch Cương 306.283 6,16
4  Đức 26.634,4 5,67 Jens Weidmann Olaf Scholz 267.798 5,39
5  Pháp 20.155,1 4,29 Bruno Le Maire François Villeroy de Galhau 203.005 4,09
6  Anh Quốc 20.155,1 4,29 Philip Hammond Mark Carney 203.005 4,09
7  Ý 15.070,0 3,21 Giovanni Tria Ignazio Visco 152.154 3,06
8  Ấn Độ 13.114,4 2,79 Rakesh Mohan Urjit Patel 132.598 2,67
9  Nga 12.903,7 2,75 Anton Siluanov Elvira S. Nabiullina 130.491 2,63
10  Brasil 11.042,0 2,35 Henrique Meirelles Ilan Goldfajn 111.874 2,25
11  Canada 11.023,9 2,35 Bill Morneau Stephen Poloz 111.693 2,25
12  Ả Rập Xê Út 9.992,6 2,13 Ibrahim A. Al-Assaf Fahad Almubarak 101.380 2,04
13  Tây Ban Nha 9.535,5 2,03 Luis de Guindos Luis María Linde 96.809 1,95
14  México 8.912,7 1,90 Luis Videgaray Agustín Carstens 90.581 1,82
15  Hà Lan 8.736,5 1,86 Klaas Knot Hans Vijlbrief 88.819 1,79
16  Hàn Quốc 8.582,7 1,83 Kim Dong-yeon Lee Ju-yeol 87.281 1,76
17  Úc 6.572,4 1,40 Scott Morrison John Fraser 67.178 1,35
18  Bỉ 6.410,7 1,37 Jan Smets Marc Monbaliu 65.561 1,32
19  Thụy Sĩ 5.771,1 1,23 Thomas Jordan Eveline Widmer-Schlumpf 59.165 1,19
20  Indonesia 4.648,4 0,99 Perry Warjiyo Mahendra Siregar 47.938 0,96

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Schermers, Henry & Niels Blokker. International Institutional Law. Leiden, NDL: Martinus Nijhoff Publishers, 2011. Tr 1187.
  2. ^ Quan hệ với Việt Nam
  3. ^ “IMF Members' Quotas and Voting Power, and IMF Board of Governors”.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]

Tiếng Việt:

Tiếng Anh: