Kygo
Kygo | |
---|---|
Kygo biểu diễn tại Lễ hội Âm nhạc Veld tại Toronto năm 2016 | |
Thông tin nghệ sĩ | |
Tên khai sinh | Kyrre Gørvell-Dahll |
Sinh | 11 tháng 9, 1991 Singapore[1][2][3][4] |
Nguyên quán | Bergen, Na Uy |
Thể loại | |
Nghề nghiệp |
|
Nhạc cụ |
|
Năm hoạt động |
|
Hãng đĩa | Sony[7] |
Hợp tác với | |
Website | kygomusic |
Kyrre Gørvell-Dahll (phát âm tiếng Na Uy: ['ɕyʷ:ɾə 'gø:rvɛɫ̪ daːɫ̪]; sinh ngày 11 tháng 9 năm 1991), thường được biết đến qua nghệ danh Kygo (Kyrre Gorvell),[8] là một DJ, nhà sản xuất thu âm, nhạc sĩ và nghệ sĩ người Na Uy. Anh thu hút được sự chú ý toàn cầu với bản remix bài hát "I See Fire" của Ed Sheeran, nhận được hơn 50 triệu lượt nghe trên SoundCloud và 65 triệu lượt xem trên YouTube[9] cùng với đĩa đơn của anh "Firestone" nhận được 370 triệu lượt xem trên YouTube và 400 triệu lượt nghe trên dịch vụ stream nhạc trực tuyến Spotify, tính tới tháng 8 năm 2016.[10][11]
Kygo đã phát hành một vài đĩa đơn, như "ID", "Stole the Show", "Here for You", và "Stay", đều được lọt vào một số bảng xếp hạng quốc tế. Album phòng thu đầu tay của Kygo, Cloud Nine, được phát hành ngày 13 tháng 5 năm 2016.[12] Kygo đã làm nên lịch sử vào ngày 21 tháng 8 năm 2016 tại Thế vận hội Rio 2016, khi trở thành nhà sản xuất nhạc house đầu tiên biểu diễn tại một lễ bế mạc Thế vận hội. Anh cũng là nghệ sĩ thể loại nhạc house đầu tiên được biểu diễn tại Buổi hòa nhạc tại Lễ trao giải Nobel Hòa Bình.[13]
Cuộc đời và sự nghiệp
[sửa | sửa mã nguồn]Khởi đầu
[sửa | sửa mã nguồn]Kygo sinh tại Singapore.[1][2][3] Bố của anh, Lars Gørvell-Dahll,[4][14] làm việc trong ngành công nghiệp hàng hải[15] còn mẹ anh là một nha sĩ.[16] Anh có một người anh trai kế, hai chị gái và một em trai cùng cha khác mẹ,[2] tên là Sondre.[14] Trong những năm còn trẻ của anh, anh "[đã] sống và [đã] du lịch cùng gia đình anh tới Brazil, Nhật Bản, Kenya và Ai Cập."[2]
Kygo bắt đầu học piano khi mới 6 tuổi.[17] Anh ngừng học piano khi anh được khoảng 15 hay 16 tuổi và bắt đầu sản xuất nhạc với Logic Studio và một bàn phím MIDI theo một vài video hướng dẫn trên YouTube.[18] Khi anh quyết định theo đuổi âm nhạc trọn thời gian thì anh đã học được một nửa khoảng thời gian cho bằng kinh doanh và tài chính tại Đại học Heriot-Watt ở Edinburgh, Scotland.[19]
2014: Đột phá
[sửa | sửa mã nguồn]Ngày 1 tháng 12 năm 2014, anh phát hành đĩa đơn "Firestone", có sự hợp tác từ Conrad (tên viết tắt của Conrad Sewell), đã thu hút được sự công nhận trên toàn cầu và lọt vào nhiều bảng xếp hạng quốc tế. Sau khi nhận được hơn 80 triệu lượt xem trên YouTube và SoundCloud, Kygo đã được liên lạc bởi cả Avicii và Chris Martin của Coldplay để tạo một bản remix chính thức cho bài hát "Midnight".[20][21] Anh cũng hỗ trợ cho Avicii tại lễ hội Findings Festival ở Oslo, Na Uy trong năm 2014.[20] Vào ngày 19 tháng 9 năm 2014, Kygo được xác nhận sẽ thay thế Avicii trên sân khấu chính tại TomorrowWorld, do lo ngại về sức khỏe của Avicii.[22]
Anh cũng được tạp chí Billboard phỏng vấn, trong đó anh nói về các bản remix của anh cho Diplo và Coldplay, và nói về các chuyến lưu diễn sắp tới tại Bắc Mỹ.[23] Vào tháng 7 năm 2014, Kygo kết hợp với nhãn hiệu Electric Family để hợp tác sản xuất một vòng đeo tay trong đó 100% lợi nhuận sẽ được trao tặng cho Tổ chức Bác sĩ không biên giới.[24] Trong cùng tháng đó, anh ký hợp đồng với hãng đĩa Sony International và Ultra Music.[25]
2015–2016: Cloud Nine và Kygo Life
[sửa | sửa mã nguồn]Vào tháng 2 năm 2015, bài hát "ID" của Kygo được giới thiệu trong trailer chính thức của Ultra Music Festival.[26] Bài hát này cũng được giới thiệu trong FIFA 16, một trò chơi điện tử nổi tiếng của EA Sports.[27] Vào tháng 8 năm 2015, Kygo trở thành nghệ sĩ mở đầu tại lễ hội Lollapalooza ở Chicago, một trong những lễ hội âm nhạc lớn nhất thế giới. Anh lần đầu tiên biểu diễn trên truyền hình Mỹ trên chương trình The Late Late Show with James Corden vào tháng 10 năm 2015.
Vào ngày 21 tháng 3 năm 2015, anh phát hành đĩa đơn thứ hai, "Stole the Show", tính tới 11 tháng 4 năm 2015, đã có hơn 1,4 triệu lượt stream trực tuyến.[28] Vào ngày 31 tháng 7 năm 2015, anh phát hành đĩa đơn thứ ba, "Nothing Left", hợp tác cùng với Will Heard. "Nothing Left" đạt tới vị trí thứ nhất trên bảng xếp hạng Norwegian Singles Chart. Vào ngày 4 tháng 9 năm 2015, anh phát hành đĩa đơn thứ tư, "Here for You", hợp tác với Ella Henderson, trước đó đã được hé lộ là phiên bản có lời của bài hát "ID" đã được phát hành tại Ultra Music Festival.
Ba tháng sau, đĩa đơn thứ năm của anh, "Stay", được sản xuất cùng với người bạn là nhà sản xuất thu âm người Na Uy William Larsen và được hợp tác với Maty Noyes, được phát hành vào ngày 4 tháng 12 năm 2015.
Sau khi phát hành đĩa đơn này, Kygo thông báo sẽ tổ chức một chuyến lưu diễn quốc tế để quảng bá cho album phòng thu đầu tay của anh. Sau đó không lâu, anh tiết lộ album này sẽ được phát hành vào ngày 19 tháng 2 năm 2016, nhưng sau đó đã bị hoãn lại. Thay vào đó, anh phát hành một teaser của các bài hát mà anh đang làm việc có trong album này và phát hành nó qua SoundCloud.
Vào đầu tháng 3 năm 2016, Kygo chính thức công bố và xác nhận album phòng thu đầu tay của anh sẽ được phát hành ngày 13 tháng 5 năm 2016, với tựa đề Cloud Nine. Anh cũng thông báo sẽ phát hành ba đĩa đơn quảng bá sau khi phát hành album. Đĩa đơn đầu tiên trong số này, có tựa đề là "Fragile" được phát hành ngày 18 tháng 3 năm 2016, có sự hợp tác của Labrinth. Đĩa đơn thứ hai phát hành ngày 1 tháng 4 năm 2016, có tựa đề là "Raging", được sự hợp tác từ ban nhạc Ireland Kodaline và được đồng sáng tác bởi James Bay. Đĩa đơn thứ ba và cuối cùng được phát hành vào ngày 22 tháng 4 năm 2016 và được đặt tên là "I'm In Love", có sự hợp tác của James Vincent McMorrow.
Album phòng thu đầu tay của Kygo được phát hành ngày 13 tháng 5 năm 2016.[12] Một số nghệ sĩ khác cùng hợp tác với Kygo trong album này bao gồm Parson James, Tom Odell, Kodaline, Conrad Sewell, John Legend, James Vincent McMorrow, Foxes, RHODES, Matt Corby, Maty Noyes, Julia Michaels và Angus and Julia Stone
Kygo ra mắt một nhãn hiệu mới có tên là Kygo Life vào ngày 17 tháng 8 năm 2016. Nhãn hiệu này gồm hai bộ sưu tập cả thời trang cao cấp và quần áo thường ngày, cùng với các loại thiết bị phần cứng như tai nghe.[30][31] Kygo Life hiện tại mới chỉ có tại châu Âu.[32][33]
Anh đã cùng biểu diễn bài hát "Carry Me" với ca sĩ và nhạc sĩ người Mỹ Julia Michaels tại lễ bế mạc Thế vận hội Mùa hè 2016 vào ngày 21 tháng 8 tại Sân vận động Maracanã ở Rio de Janeiro, trong một phần biểu diễn nhằm quảng bá dịch vụ mới Olympic Channel sẽ bắt đầu sau Thế vận hội.[34]
2017–2018: Stargazing và Kids in Love
[sửa | sửa mã nguồn]Vào ngày 9 tháng 2 năm 2017, Kygo đăng tải một đoạn trích ngắn trong bài hát của anh hợp tác với nữ diễn viên và ca sĩ người Mỹ Selena Gomez.[35] Cả hai đã chính thức xác nhận đĩa đơn có tựa đề "It Ain't Me" thông qua mạng xã hội vào ngày 13 tháng 2 năm 2017, sau đó được chính thức phát hành ngày 16 tháng 2 năm 2017.[36] Bài hát là đĩa đơn đầu tiên từ EP đầu của Kygo, Stargazing.
Vào ngày 28 tháng 4 năm 2017, Kygo phát hành đĩa đơn thứ hai từ EP, "First Time", với ca sĩ người Anh Ellie Goulding.
Vào ngày 15 tháng 9 năm 2017, Kygo phát hành bản remix bài hát "You're The Best Thing About Me" của nhóm nhạc U2, được phát hành như một đĩa đơn hợp tác chung giữa hai bên.[37]
Vào ngày 19 tháng 10 năm 2017, Kygo thông báo qua Facebook rằng album phòng thu thứ hai của anh sẽ có tên là Kids in Love, và sẽ được phát hành ngày 3 tháng 11. Ngày 20 tháng 10 năm 2017, anh phát hành đĩa đơn đầu tiên "Kids in Love" hợp tác với The Night Game. Một thời gian ngắn sau khi phát hành album, Kygo cũng công bố chuyến lưu diễn Kids In Love Tour. Vào ngày 16 tháng 3 năm 2018, Kygo phát hành "Remind Me to Forget", bài hát hợp tác với ca sĩ Mỹ Miguel, đĩa đơn thứ ba từ album sau "Stranger Things".
Vào tháng 6 năm 2018, Kygo công bố sản phẩm hợp tác của anh với ban nhạc rock Mỹ Imagine Dragons có tựa đề "Born to Be Yours".[38]
Đời sống cá nhân
[sửa | sửa mã nguồn]Kyrre hiện đang hẹn hò với Maren Platou, được công chúng biết tới từ tháng 3 năm 2016.[39] Anh là một người hâm mộ của câu lạc bộ bóng đá Manchester United.[40]
Hoạt động từ thiện
[sửa | sửa mã nguồn]Vào tháng 6 năm 2016 NRK nói rằng Kygo đang "trao tặng 50 000 USD [...] từ lợi nhuận [của lễ hội của anh vào ngày 20 tháng 8]" tới Frank Mugisha; họ trích lời Kygo: "Mọi người nên được phép sống với thiên hướng tình dục của mình. Điều đó lại đang không xảy ra tại Uganda và ở một số nước khác khắp thế giới".[41]
Danh sách đĩa nhạc
[sửa | sửa mã nguồn]Album phòng thu
- Cloud Nine (2016)
- Kids in Love (2017)
- Golden Hour (2020)
Danh sách phim
[sửa | sửa mã nguồn]- Phim
Năm | Tựa đề | Vai | Thời lượng | Ghi chủ | Tham khảo |
---|---|---|---|---|---|
2017 | Stole the Show | Chính anh | 51 phút (0 giờ, 51 phút) | Phim tài liệu do Apple Music sản xuất | [42] |
- Truyền hình
Năm | Tựa đề | Vai | Số tập | Ghi chú | Tham khảo |
---|---|---|---|---|---|
2015 | Bring On the Night | Chính anh | 2 (mùa 1) | Series phim tài liệu của VGTV | [43] |
Nøkkelen til suksess | 1 (mùa 1, tập 4) | Series phim tài liệu của NRK | [44] |
Lưu diễn
[sửa | sửa mã nguồn]Giải thưởng và đề cử
[sửa | sửa mã nguồn]Năm | Tổ chức | Giải | Dành cho | Kết quả | Tham khảo |
---|---|---|---|---|---|
2015 | YouTube Music Awards | YouTube Music Video Award | "Stole the Show" | Đoạt giải | [48] |
Giải Âm nhạc châu Âu của MTV | Nghệ sĩ Na Uy xuất sắc nhất | Kygo | Đề cử | [49] | |
2016 | International Dance Music Awards bởi Winter Music Conference |
DJ đột phá xuất sắc nhất | Đoạt giải | [50] | |
Nghệ sĩ đột phá xuất sắc nhất (Solo) | Đoạt giải | ||||
Bài hát Chillout/Lounge xuất sắc nhất | "Stole the Show" | Đoạt giải | |||
Spellemannprisen '15 | Årets Spellemann (Spellemann của năm) | Kygo | Đoạt giải | [51][52] | |
Årets Nykommer & Gramostipend (Nghệ sĩ mới của năm & Học bổng Gramo) |
Đề cử | ||||
Årets Musikkvideo (Video âm nhạc của năm) | "Stole the Show" | Đề cử | |||
Årets Låt (Bài hát của năm) | Đoạt giải | ||||
"Firestone" | Đề cử | ||||
Electronic Music Awards & Foundation * Chưa có kết quả do lễ trao giải bị hoãn |
Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất | Kygo | Chưa công bố | [53] | |
Đĩa đơn của năm | "Stole the Show" | Chưa công bố | |||
Spellemann & Music Norway | Eksportprisen '15 (Giải Export '15) | Kygo | Đoạt giải | [54] | |
Giải Âm nhạc châu Âu của MTV | Nghệ sĩ Na Uy xuất sắc nhất | Đề cử | [55] | ||
NRJ Music Awards | DJ de l’année (DJ của năm) | Đề cử | [56] | ||
2017 | Spellemannprisen '16 | Popsolist (Nghệ sĩ pop solo) | Cloud Nine | Đề cử | [57] |
Årets Låt (Bài hát của năm) | "Stay" | Đề cử | |||
WDM Radio Awards | Tài năng mới xuất sắc nhất | Kygo | Đề cử | [58] | |
Giải thưởng âm nhạc Billboard | Album dance/điện tử hàng đầu | Cloud Nine | Đề cử | [59] | |
Teen Choice Awards | Bài hát hợp tác được yêu thích | "It Ain't Me" (cùng với Selena Gomez) |
Đề cử | [60] | |
Bài hát điện tử/dance được yêu thích | Đề cử | [61] | |||
Giải Video âm nhạc của MTV | Video nhạc dance xuất sắc nhất | Đề cử | [62] | ||
Nickelodeon Colombia Kids' Choice Awards | Colaboración Favorita (Bài hát hợp tác được yêu thích nhất) |
Đề cử | [63] | ||
Nickelodeon Mexico Kids' Choice Awards | Đề cử | [64] | |||
Nickelodeon Argentina Kids' Choice Awards | Đề cử | [65] | |||
LOS40 Music Awards | Nghệ sĩ quốc tế của năm | Kygo | Đề cử | [66] | |
Video quốc tế xuất sắc nhất | "It Ain't Me" (cùng với Selena Gomez) |
Đoạt giải | |||
Giải Âm nhạc châu Âu của MTV | Nghệ sĩ Na Uy xuất sắc nhất | Kygo | Đề cử | [67] | |
2018 | Spellemannprisen '17 | Årets Låt (Bài hát của năm) | "It Ain't Me" (cùng với Selena Gomez) |
Đề cử | [68] |
WDM Radio Awards | Bài hát quốc tế xuất sắc nhất | Đề cử | [69] | ||
DJ nhạc deep house xuất sắc nhất | Kygo | Đề cử | |||
Giải thưởng âm nhạc Billboard | Nghệ sĩ nhạc dance/điện tử hàng đầu | Kygo | Đề cử | [70] | |
Album nhạc dance/điện tử hàng đầu | Stargazing | Đề cử | |||
Bài hát nhạc dance/điện tử hàng đầu | "It Ain't Me" (cùng với Selena Gomez) |
Đề cử |
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b “16 Things We Learned About Kygo From His iHeartRadio #TwitterTuesday Takeover”. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2016.
- ^ a b c d Barshad, Amos (ngày 19 tháng 2 năm 2016). “Billboard Cover: Kygo on His Rise to Fame -- 'I Have to Enjoy It While It Lasts'”. Billboard. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2016.
- ^ a b Meadow, Matthew (ngày 25 tháng 5 năm 2016). “Your EDM Exclusive Interview: Kygo, On "Cloud Nine"”. Your EDM. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2016.
- ^ a b http://niceflip.com/86cc8cc052ce784c758d0bddd0c945ad/files/assets/basic-html/page26.html
- ^ “Like it or Not, Kygo's Tropical House is the Sound of the Summer”.
- ^ Ahlgrim, Callie (ngày 10 tháng 1 năm 2020). “10 of the best and 10 of the worst Selena Gomez songs of all time”. The Insider.
- ^ NRK. “Kygo signerer med Sony”. NRK.
- ^ “Spotify”.
- ^ “Ed Sheeran – I See Fire (Kygo Remix)”.
- ^ “Ed Sheeran – I See Fire (Kygo Remix)”. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2015.
- ^ “Kygo – I See Fire”. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2015.
- ^ a b Matthem, Meadow. “Kygo Announces Official Release Date Of Debut Album... For Real, This Time”. Your EDM. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2016.
- ^ “Kygo Performs at Closing Ceremony of 2016 Rio Olympics”. EDM.com. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 10 năm 2017. Truy cập 26 tháng 11 năm 2016.
- ^ a b Berglund, Nina (ngày 18 tháng 12 năm 2015). “Kygo comes home as a hero”. News in English. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2016.
- ^ https://no.linkedin.com/in/lars-g%C3%B8rvell-dahll-780ab9
- ^ Smyth, David (ngày 4 tháng 9 năm 2015). “DJ Kygo on tropical house, going with the slow and why he's primarily a pianist”. Evening Standard. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2016.
- ^ “Fanabuen Kyrre (22) gikk fra pianotimer til DJ-suksess”. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2015.
- ^ “Interview: Kygo”. The Vibe Guide. ngày 9 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2015.
- ^ “DJ Kygo on tropical house, going with the slow and being a pianistsww”. Evening Standard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2015.
- ^ a b “Coldplay ringte norske Kygo og ba om musikk”. ngày 18 tháng 4 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2015.
- ^ “Norske Kyrre (22) spiller på megafestival”. ngày 9 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2015.
- ^ “Kygo to Replace Avicii at TomorrowWorld”. ngày 19 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2015.
- ^ “Kygo Talks Mixing for Diplo, Coldplay and Upcoming Tour”. ngày 17 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2015.
- ^ “Kygo Bracelet – Electric Family”.
- ^ “Norwegian DJ Kygo Is On the Verge of Becoming Dance Music's Next Superstar”. ngày 24 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2015.
- ^ “Ultra Music Festival Announces Brand New Show For Kygo And Reveals His Next Song”.
- ^ “Kygo's ID features on FIFA 16”.
- ^ “Kygo – Stole the Show feat. Parson James”.
- ^ “Kygo - Kygo added a new photo”. Facebook. ngày 15 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2018.
- ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2016.
- ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2016.
- ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2016.
- ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2016.
- ^ “Kygo to Perform at Rio Olympics Closing Ceremony”. Billboard. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2016.
- ^ “Here's Your First Clip of Selena Gomez's "It Ain't Me" Music Video With Kygo”. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2017.
- ^ “SELENA GOMEZ & KYGO'S "IT AIN'T ME" PREMIERES THURSDAY, FEBRUARY 16”. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2017.
- ^ “You're The Best Thing About Me Single - U2”. u2songs.com. ngày 15 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2017.
- ^ ngày 11 tháng 6 năm 2018. “Kygo & Imagine Dragons Tease 'Born To Be Yours' Collaboration”. Billboard. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2018.
- ^ Kygo bryter tausheten om kjæresten Maren
- ^ “DJs And Their Favorite Football Clubs”. ravejungle.com. ngày 22 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2017.
- ^ https://www.nrk.no/hordaland/kygo-gir-penger-til-homokamp-i-afrika-1.13016965
- ^ “Kygo: Stole the Show on Apple Music”. Apple Music. ngày 26 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2017.
- ^ “Bring on the night - Kygo part 1 - VGTV”. VGTV. ngày 5 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2017.
- ^ “Nøkkelen til suksess: Kygo”. NRK. ngày 12 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2017.
- ^ “Kygo's Endless Summer Tour: United States”. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2017.
- ^ Kygo Announces Cloud Nine World Tour
- ^ Bein, Kat. “Kygo Announces 'Kids in Love' Tour with Gryffin, Blackbear, SEEB”. Billboard.
- ^ “Kygo "Stole The Show" Winning A YouTube Music Video Award - RaverRafting”. ngày 26 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Taylor Swift Leads MTV EMAs With 9 Nominations”.
- ^ “31st Annual International Dance Music Awards - Winter Music Conference 2016 - WMC 2016”. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2016.
- ^ “Nominees for Norwegian Grammy Awards are in”.
- ^ “Sundfør big winner at Spellemann award”. ngày 9 tháng 2 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2016.
- ^ Meadow, Matthew (ngày 18 tháng 2 năm 2016). “EDM's First Ever American Award Show Reveals Nominations, But There's No Jack Ü In Sight”.
- ^ “Kygo er vinner av Eksportprisen 2015”.
- ^ “MTV European Music Awards: Kygo”.
- ^ “«DJ de l'année»: qui succédera à David Guetta ? – NRJ Music Awards 2016”. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2017.
- ^ Årets Nominerte (2016) Lưu trữ 2017-01-06 tại Wayback Machine
- ^ “Nominados a los WDM Radio Awards”. LOS40. Bản gốc lưu trữ 7 Tháng 3 2017. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2017. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:
|archive-date=
(trợ giúp) - ^ “Drake, The Chainsmokers Lead Nominees for the 2017 Billboard Music Awards”. Billboard. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2017.
- ^ “Vote for Your Favorite Nominees !”. Teen Choice. Bản gốc lưu trữ Tháng 9 5, 2017. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2017. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:
|archive-date=
(trợ giúp) - ^ “Second And Final Wave of "Teen Choice 2017" Nominees Announced”. Teen Choice. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2017.
- ^ Stutz, Colin (ngày 25 tháng 7 năm 2017). “Kendrick Lamar, Katy Perry & The Weeknd Lead MTV Video Music Awards Nominations”. Billboard. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2017.
- ^ “KCA Colombia 2017: ¡Conoce A Los Pre Nominados!” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Trendy by nick. Bản gốc lưu trữ Tháng 7 29, 2017. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2017. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:
|archive-date=
(trợ giúp) - ^ “¡Checa los nominados a los Kids' Choice Awards México 2017!” (bằng tiếng Tây Ban Nha). revista Tú. ngày 22 tháng 6 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2017.
- ^ “Estos son todos los nominados a los Kid's Choice Awards Argentina 2017” (bằng tiếng Tây Ban Nha). TKM. ngày 21 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2017.
- ^ Cobo, Leila. “LOS40 Music Awards 2017: artistas nominados”. Los 40. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2017.
- ^ “Breaking: The 2017 MTV EMA Nominations Are Here!”. MTV. ngày 4 tháng 9 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2018.
- ^ Fold, The. “Spellemann // NOMINERTE SPELLEMANN 2017”. Spellemann. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2018.
- ^ “WDM Radio Awards 2018”. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2018.
- ^ “Billboard Music Awards 2018 Nominations: See the Full List”. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2018.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- Website chính thức
- Kygo trên Facebook
- Kygo trên Twitter
- Kygo trên Instagram
- Kygo trên SoundCloud
- Kygo trên Spotify
- kygolife.com Official brand site
- kygostore.com Lưu trữ 2016-08-20 tại Wayback Machine Official brand store