[go: up one dir, main page]

Bước tới nội dung

Kathy Bates

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Kathy Bates
SinhKathleen Doyle Bates
Nghề nghiệpnữ diễn viên, đạo diễn truyền hình, ca sĩ, chủ nhiệm phim, nhạc sĩ sáng tác
Năm hoạt động1971 tới nay
Phối ngẫuTony Campisi (1991-1997)
Websitemskathybates.com

Kathleen Doyle "Kathy" Bates (sinh ngày 28 tháng 6 năm 1948) là một nữ diễn viên kịch, điện ảnh kiêm đạo diễn người Mỹ, đã đoạt Giải Oscar, Giải Quả cầu vàngGiải của Nghiệp đoàn diễn viên màn ảnh.

Tiểu sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Thời thơ ấu

[sửa | sửa mã nguồn]

Bates sinh tại Memphis, Tennessee, Hoa Kỳ, là con gái của Bertye Kathleen (nhũ danh Talbot), người nội trợ và Langdon Doyle Bates, một kỹ sư cơ khí.[1] Nội tổ của Bates là một di dân từ Ireland tới New Orleans và làm bác sĩ riêng cho tổng thống Andrew Jackson.[2] Bates có 2 chị gái, Mary và Patricia. Bà tốt nghiệp trường White Station High School ở Memphis, rồi học trường Southern Methodist University, chuyên về kịch nghệ và là hội viên của Hội phụ nữ Alpha Delta Pi. Bà tốt nghiệp trường này năm 1969 và chuyển tới cư ngụ ở thành phố New York năm 1970 để theo đuổi nghề diễn viên.[3]

Sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Bà xuất hiện ở Broadway trong các vở Fifth of July của Lanford Wilson và vở Come Back to the Five and Dime, Jimmy Dean, Jimmy Dean do Robert Altman đạo diễn, đối đầu với Karen BlackCher. Bà được đề cử cho Giải Tony năm 1983 cho vai diễn ở vở kịch đoạt Giải Pulitzer là vở 'night, Mother, đối đầu với Anne Pitoniak. Vở 'night, Mother này đã được trình diễn trên một năm.

Một trong các thành công khác của bà trong kịch nghệ ở New York là vở Off-Broadway, vở Frankie and Johnny in the Clair de Lune của Terrence McNally đã được trình diễn 533 buổi. McNally viết vở này đặc biệt cho Bates và F. Murray Abraham, nhưng Abraham bỏ vai diễn và Kenneth Welsh diễn thay. Vở này sau đó được quay thành phim mang tên Frankie and Johnny, với các ngôi sao Al PacinoMichelle Pfeiffer.

Vai diễn trong phim đầu tiên của Bates là phim hài Taking Off năm 1971 của Miloš Forman (ghi tên trên phim là "Bobo Bates"), trong đó bà hát bài nguyên thủy "Even Horses Had Wings". Phim tiếp theo của Bates là phim Straight Time (1978) với Dustin Hoffman. (Năm 1990, bà lại đóng chung với Hoffman trong phim Dick Tracy của Warren Beatty trong vai người viết tốc ký.) Bates tiếp tục xuất hiện trong các phim như Summer Heat, The Morning After và làm diễn viên khách trong các show truyền hình như L.A. Law, trước khi giành được vai người hâm mộ bị ám ảnh Annie Wilkes, kẻ đã bắt giữ tác giả mà mình hâm mộ (do James Caan diễn), trong phim giật gân Misery năm 1990, dựa trên tiểu thuyết cùng tên của Stephen King. Bates được đề cử lần đầu cho giải Oscar cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất, cho vai diễn này và đã đoạt giải. Ngay sau đó, bà diễn chung với Jessica Tandy trong phim được hoan hô Fried Green Tomatoes năm 1991.

Năm 1995, bà thực hiện được vai diễn được hoan hô khác là vai nhân vật mang tên phim Dolores Claiborne, nhưng không được đề cử cho giải Oscar. Bà cũng nổi bật trong vai cố vấn chính trị miệng lưỡi chua ngoa Libby Holden trong phim Primary Colors năm 1998, chuyển thể từ quyển sách trong đó ký giả chính trị Joe Klein thuật lại các kinh nghiệm của mình về chiến dịch tranh cử tổng thống kéo dài năm 1991-1992. Với vai diễn này, Bà được đề cử cho giải Oscar cho nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất. Đây là lần đề cử thứ hai của bà, nhưng không đoạt giải. Năm 2002, bà lại được đề cử lần nữa cho vai diễn trong phim About Schmidt, nhưng cũng không đoạt giải.

Bates đóng vai khỏa thân lần đầu khi 43 tuổi, trong phim At Play in the Fields of the Lord (1991) và khỏa thân lần nữa trong 1 cảnh ở phim About Schmidt. Gần đây hơn, Bates và Terry Bradshaw đóng vai cha mẹ của nhân vật Matthew McConaughey trong phim Failure to Launch năm 2006. Bates cũng diễn một vai nhỏ rất đạt trong loạt phim ngắn nhiều tập The Stand của Stephen King, nhưng không ghi tên trên phim.

Bates được đề cử cho Giải Emmy 7 lần, cả trong vai trò diễn viên lẫn đạo diễn truyền hình: "Giải cho diễn viên xuất sắc trong loạt phim ngắn nhiều tập hoặc phim" cho vai diễn là người quản lý Helen Kushnick của Jay Leno trong phim The Late Shift (1996) của HBO, và 2 lần nữa trong cùng thể loại, cho vai Miss Hannigan trong phim làm lại Annie (1999) của Disney và cho phim Warm Springs (2005) của HBO. Bates được đề cử cho "Giải cho nữ diễn viên chính trong loạt phim ngắn nhiều tập hoặc phim" cho phim Ambulance Girl (2006) của Lifetime Television, cũng chính do bà đạo diễn. Bates xuất hiện trong 10 tập của loạt phim ngắn nhiều tập Six Feet Under của đài Truyền hình cáp quang HBO, trong đó bà được đề cử cho Giải Emmy cho "Nữ diễn viên khách trong loạt kịch ngắn, vai Bettina, năm 2003. Bates cũng được đề cử cho giải "Nữ diễn viên khách xuất sắc trong loạt hài kịch nhiều tập" 3rd Rock from the Sun năm 1999. Cùng năm, Bates được đề cử cho giải đạo diễn xuất sắc trong loạt phim truyền hình ngắn nhiều tập hoặc phim" cho phim truyền hình Dash & Lilly.

Bắt đầu từ thập niên 1990, Bates chuyển sang làm đạo diễn truyền hình: Bates đã đạo diễn các tập Homicide: Life on the Street, NYPD Blue, Oz, Six Feet Under, Everwood, Dash and LillyAmbulance Girl (mà bà cũng diễn xuất). Năm 2007, Bates đạo diễn và cũng diễn xuất trong Have Mercy, đối đầu với Melanie Griffith. Năm 2008, bà tái hợp với đội ngũ diễn viên cũ của phim Titanic là ngôi sao Leonardo DiCaprioKate Winslet trong phim Revolutionary Road.

Truyền hình

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1983, khi chưa nổi danh, Bates diễn vai người bạn đồng tù Belle trong vở kịch truyền hình nhiều kỳ All My Children. Nàng dày vò và coi thường cô gái trẻ Erica Kane (Susan Lucci) cùng chung xà lim với nàng, vì bị gán cho tội giết người. Vở kịch nhiều tập này có thể xem trên YouTube.

Đời tư

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1991, Bates kết hôn với nam diễn viên Tony Campisie. Họ ly dị năm 1997. Bà là chủ tịch Ban điều hành ngành diễn viên của Hội đồng quản trị Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh. Bates bị chẩn đoán là mắc bệnh ung thư buồng trứng năm 2003, nhưng gần đây đã ăn mừng 5 năm thuyên giảm và tự coi như mình đã hoàn toàn bình phục. Bà chia sẻ chuyện của mình với Liên minh quốc gia Ung thư buồng trứng trong tháng 9 năm 2008 trong một PSA và phỏng vấn.[4][5]

Phim mục

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Phim Vai diễn Ghi chú
1971 Taking Off Audition Singer: 'Even the Horses Had Wings' vai Bobo Bates
1978 Straight Time Selma Darin
1982 Come Back to the Five and Dime, Jimmy Dean, Jimmy Dean Stella Mae
1983 Two of a Kind Furniture man's wife
1986 The Morning After Woman on Mateo Street
1987 Summer Heat Ruth
1988 My Best Friend Is a Vampire Helen Blake vai Kathy D. Bates
Arthur 2: On the Rocks Mrs. Canby
1989 Signs of Life Mary Beth Alder
High Stakes Jill
1990 Men Don't Leave Lisa Coleman
Dick Tracy Mrs. Green
White Palace Rosemary
Misery Annie Wilkes Đoạt Giải Oscar cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất
Đoạt Giải Quả cầu vàng cho nữ diễn viên phim chính kịch xuất sắc nhất
1991 At Play in the Fields of the Lord Hazel Quarrier
Fried Green Tomatoes Evelyn Couch Đề cử Giải Quả cầu vàng cho nữ diễn viên phim chính kịch xuất sắc nhất
1992 The Road to Mecca Elsa Barlow
Shadows and Fog Gái điếm
Prelude to a Kiss Leah Blier
Used People Bibby Berman
1993 A Home of Our Own Frances Lacey
1994 North Alaskan mom
Curse of the Starving Class Ella Tate
The Stand Rae Flowers Không ghi tên trên phim
1995 Dolores Claiborne Dolores Claiborne
Angus Meg Bethune
1996 Diabolique Det. Shirley Vogel
The War at Home Maurine Collier
The Late Shift Helen Kushnick Đoạt Giải Quả cầu vàng cho nữ diễn viên phụ trong loạt phim nhiều tập, phim ngắn nhiều tập hoặc phim truyền hình
Đoạt Giải của Nghiệp đoàn diễn viên màn ảnh cho nữ diễn viên xuất sắc trong phim truyền hình hoặc loạt phim ngắn nhiều tập
Đề cử Giải Emmy
1997 Swept from the Sea Miss Swaffer
Titanic Molly Brown
1998 Primary Colors Libby Holden Đề cử Giải Oscar cho nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất
Đề cử Giải Quả cầu vàng cho nữ diễn viên điện ảnh phụ xuất sắc nhất
Đoạt Giải của Nghiệp đoàn diễn viên màn ảnh cho nữ diễn viên đóng vai phụ xuất sắc
The Effects of Magic Raphaella, the Magic Bunny giọng nói
The Waterboy Helen 'Mama' Boucher Đoạt Giải điện ảnh Blockbuster cho nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất trong vai hài
A Civil Action Bankruptcy judge không ghi tên trên phim
1999 Annie Miss Agatha Hannigan Đề cử Giải Emmy
Đề cử Giải Quả cầu vàng
3rd Rock From the Sun Charlotte Everly Đề cử Giải Emmy
Dash and Lily Director Đề cử Giải Emmy cho đạo diễn
2001 Rat Race The Squirrel Lady không ghi tên trên phim
American Outlaws Ma James
2002 Love Liza Mary Ann Bankhead
Dragonfly Mrs. Belmont
About Schmidt Roberta Hertzel Đề cử Giải Oscar cho nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất
Đề cử Giải Quả cầu vàng cho nữ diễn viên điện ảnh phụ xuất sắc nhất
Unconditional Love Grace Beasley
My Sister's Keeper Christine Chapman Đề cử Giải của Nghiệp đoàn diễn viên màn ảnh
2003 Six Feet Under Bettina Đề cử Giải Emmy
2004 Around the World in 80 Days Queen Victoria
Little Black Book Kippie Kann
The Cutting Edge: The Magic of Movie Editing Narrator phim tài liệu
The Bridge of San Luis Rey The Marquesa
2005 Rumour Has It Aunt Mitsy không ghi tên trên phim
3 & 3 The Judge
Warm Springs Helena Mahoney Đề cử Giải Emmy
2006 Failure to Launch Sue
Have Mercy
Solace vợ Marrow
Ambulance Girl Jane Stern Đề cử Giải Emmy
Relative Strangers Agnes Menure
Bonneville Margene
Charlotte's Web Bitsy the Cow giọng nói
2007 Bee Movie Janet Benson giọng nói
Fred Claus Mother Claus
The Golden Compass Hester giọng nói
PS, I Love You Patricia
Christmas Is Here Again Miss Dowdy giọng nói
2008 The Family That Preys Charlotte Cartwright
The Day the Earth Stood Still Secretary of Defense, Dr. Regina Jackson
Revolutionary Road Mrs. Helen Givings
2009 Cheri Madame Peloux
Personal Effects Gloria

Phim ngắn

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Phim Vai diễn Ghi chú
1999 Baby Steps
2004 The Ingrate

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Film Reference.com.
  2. ^ Public Interview with Kathy Bates. Scott's Movie Comments. 16 tháng 7 năm 2006.
  3. ^ Kathy Bates Biography. Yahoo Movies.
  4. ^ [ngoài ra còn kèm theo chứng rối loạn tâm lý. http://www.youtube.com/user/ovariancancerorg “Ovarian Cancer National Alliance”] Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). line feed character trong |url= tại ký tự số 45 (trợ giúp)
  5. ^ “Ovarian Cancer National Alliance We work to save women's lives”. Ovarian Cancer National Alliance. Truy cập 5 tháng 3 năm 2015.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Giải thưởng và thành tích
Tiền nhiệm:
Jessica Tandy
phim Driving Miss Daisy
Giải Oscar cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất
1990
phim Misery
Kế nhiệm:
Jodie Foster
phim The Silence of the Lambs
Tiền nhiệm:
Michelle Pfeiffer
phim The Fabulous Baker Boys
Giải Quả cầu vàng cho nữ diễn viên phim chính kịch xuất sắc nhất
1991
phim Misery
Kế nhiệm:
Jodie Foster
phim The Silence of the Lambs
Tiền nhiệm:
Kim Basinger phim L.A. Confidential
Giải của Nghiệp đoàn diễn viên màn ảnh cho nữ diễn viên đóng vai phụ xuất sắc
1998
phim Primary Colors
Kế nhiệm:
Angelina Jolie phim Girl, Interrupted
Tiền nhiệm:
Shirley Knight
phim Indictment: The McMartin Trial
Giải Quả cầu vàng cho nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất cho loạt phim ngắn nhiều tập hoặc phim truyền hình
1997
phim The Late Shift
Kế nhiệm:
Angelina Jolie
phim George Wallace