Gong Hyo-jin
KONG HYO JIN | |
---|---|
Kong Hyo-jin trong quảng cáo SSG năm 2016 | |
Sinh | 4 tháng 4, 1980 Seoul, Hàn Quốc |
Nghề nghiệp | Diễn viên |
Năm hoạt động | 1999–nay |
Người đại diện | Management SOOP |
Khổng Hiếu Trân | |
Hangul | |
---|---|
Hanja | 孔曉振 |
Romaja quốc ngữ | Gong Hyo-jin |
McCune–Reischauer | Kong Hyojin |
Hán-Việt | Khổng Hiểu Chấn |
Kong Hyo-jin (sinh ngày 4 tháng 4 năm 1980) là nữ diễn viên nổi tiếng của Hàn Quốc, cô được biết đến với các vai diễn chính trong các bộ phim truyền hình như Thank you (2007), Pasta (2010), The Greatest Love (2011), Master's Sun (2013), It's Okay, That's Love (2014), The Producers (2015), Jealousy Incarnate (2016) và mới nhất là When the Camellia Blooms (2019). Cô được mệnh danh là nữ hoàng phim hài tình cảm và được người hâm mộ gọi là Kongvely nhờ màn diễn xuất đáng yêu của hàng loạt vai diễn thành công kể từ Pasta.
Theo một số thống kê, tất cả phim truyền hình do cô đóng vai chính đều có rating không dưới 12.9%.
Tiểu sử
[sửa | sửa mã nguồn]Kong Hyo-jin sinh tại Seoul, Hàn Quốc. Cô chuyển đến Úc sinh sống cùng mẹ và em trai khi đang học trung học, trong khi bố ở lại làm việc tại Hàn Quốc để nuôi sống gia đình. Hyo-jin học trung học tại trường John Paul ở thành phố Brisbane.[1] Cô rất thích quãng thời gian ở tại đây. Năm 2011 cô được chọn làm một trong những đại sứ thiện chí cho "Year of friendship", lễ kỉ niệm lần thứ 50 mối quan hệ ngoại giao giữa Úc và Hàn Quốc.[2][3][4][5][6]
Sau 3 năm sinh sống tại Úc, cô và gia đình quay về Hàn Quốc năm 1997 do cuộc khủng hoảng tài chính châu Á.
Đời tư
[sửa | sửa mã nguồn]Cô bắt đầu hẹn hò với nam diễn viên Ryoo Seung-bum sau khi cùng hợp tác trong phim Wonderful days. Trước đó cả hai đã từng học chung lớp tại trường tiểu học 1 năm trước khi cô chuyển trường. Trong một dịp lễ kỉ niệm Hàn Quốc, họ chính thức công khai mối quan hệ. Năm 2002, cặp đôi này cùng nhau tham gia phim hài Conduct Zero. Họ chia tay năm 2003 nhưng vẫn duy trì tình bạn. Năm 2006, cô mời Seung-bum diễn vai bạn trai cũ trong bộ phim điện ảnh Family Ties với vai khách mời. Cặp đôi cùng tham gia phim Dachimawa Lee năm 2008 mặc dù cả hai không đóng chung cảnh nào. Năm 2010, Seung-bum một lần nữa làm khác mời trong phim truyền hình Pasta. Mặc dù được bình chọn làm cặp đôi được yêu thích nhất Hàn Quốc, năm 2012 cả hai tuyên bố chấm dứt mối quan hệ này.[7][8][9][10][11]
Tháng 5 năm 2014, tờ Sports Seoul đưa tin cô và nam diễn viên Lee Jin-wook hẹn hò nhưng công ty quảng lý của Kong Hyo-jin xác nhận hai người đã chia tay vào tháng 9 cùng năm.[12][13][14][15][16]
Sự nghiệp
[sửa | sửa mã nguồn]Khởi nghiệp
[sửa | sửa mã nguồn]Tính đến lúc Hyo-jin trở về Hàn Quốc, cô làm việc như một người mẫu. Cô xuất hiện trong nhiều quảng cáo, đáng chú ý nhất là "Happy to death", một quảng cáo về sản phẩm 700-5425. Sau 1 năm rưỡi làm nghề người mẫu, cô bắt đầu nghiệp diễn với một vai diễn phụ trong bộ phim Memento mori, một bộ phim được biên đạo bởi Kim Tae-yong và Min Kyu-dong.[17][18] Ban đầu, Hyo-jin không có ý định sẽ theo đuổi nghiệp diễn xuất và không đủ kiên nhẫn để chờ đợi đến kết thúc của bộ phim nhưng thành công mà bộ phim này đem lại đã thôi thúc cô tiếp tục với công việc mới.[19][20][21] Năm 2000, Hyo-jin tiếp tục xuất hiện trong sitcom (hài kịch tình huống) "My funky family". Năm 2001, cô xuất hiện trong bộ phim truyền hình dài 50 tập "Wonderful days" trong vai người bán vé xe buýt phải lòng một nhận vật do Ryoo Seung-bum (Hyo-jin và Seung-bum sau đó đã nhận được giải Nữ diễn viên xuất sắc nhất và Nam diễn viên xuất sắc nhất trong hạng mục phim truyền hình tại lễ trao giải Baeksang Arts Awards. Sau khi xuất hiện với một vai diễn nhỏ trong vở hài kịch của Jang Jin "Gun & Talks" và bộ phim điện ảnh "Volcano high", cô được mời đóng vai chính trong bộ phim Emergency act 19[22]) và A Bizarre Love Triangle nhờ những thành công nổi bật trong năm 2002. Song chính vai diễn đầy phức tạp trong bộ phim Ruler of your own world đã giúp cô có được nhiều sự chú ý từ các doanh nghiệp thời bấy giờ. Bộ phim được khen ngợi bởi nội dung chân thực và lối diễn xuất mạnh mẽ, đồng thời tạo nên một làn sóng hâm mộ tại Hàn Quốc.[23] Cũng trong năm đó, Hyo-jin và Seung-bum cùng tham gia bộ phim Conduct Zero (hay No manners) và nhận được nhiều sự khen ngợi, vai trò của cô trong ngành công nghiệp phim ngày càng được khẳng định.[24]
Năm 2003, bộ phim dài tập Snowman ghép đôi Hyo-jin với Jo Jae-hyun, với vai diễn đầy phức tạp, một cô gái phải lòng chính người anh họ của mình.[25] Sau đó, Hyo-jin lại trở về hình tượng nhân vật nữ quen thuộc trong Sang-doo! Let's Go to School, được chỉ đạo thực hiện bởi đạo diễn Lee Hyung-min, người mà cô từng hợp tác trước đây trong một tập của Drama City. Trong phim này, cô đóng vai một cô giáo trung học tình cờ gặp lại cậu bạn trai thời niên thiếu, kẻ giờ đây chỉ là một tên trai bao, một người đàn ông độc thận với cô con gái bệnh tật. Bộ phim đánh dấu lần đầu tiên diễn xuất của ca sĩ nhạc pop Rain, đã có được những đánh giá rất tốt. Và Hyo-jin đồng thời cũng nhận được nhiều giải thưởng tại lễ trao giải KBS Drama Awards.[26]
Tuy nhiên từ năm 2004 đến 2005, sự nghiệp của cô bắt đầu trượt dốc bởi những vai diễn, bộ phim mà cô đảm nhận không có sự đột phá, mới mẻ và hình tượng nhân vật đều theo mô tuýp cũ.[20] Cô đóng vai giáo viên trung học trong Biscuit Teacher and Star Candy[20] và nhà khoa học trong Heaven's Soldiers.[27][28] Hyo-jin mong muốn thoát khỏi hình tượng cũ, trở thành người phụ nữ thực sự với những vai diễn trưởng thành hơn nhưng lại ngần ngại đóng những cảnh trần trụi trong phim.[29]
Thành công
[sửa | sửa mã nguồn]Năm 2006, đạo diễn Kim Tae-yong (người Kong kính trọng xem như thầy của mình), mời cô nhận một vai trong bộ phim điện ảnh "Family Ties", vai diễn ông viết dành riêng cho cô. Với chủ đề Hàn Quốc quen thuộc, "cội nguồn gia đình", bộ phim nhận được sự ủng hộ đông đảo qua việc cung cấp một cái nhìn mới mẻ và đầy tinh tế về những gia đình rắc rối. Dàn diễn viên được ca ngợi qua diễn xuất xuất sắc, và vai diễn của Kong - một cô gái trẻ nóng nảy có mối quan hệ rắc rối với mẹ, đã nhận được nhiều khen ngợi. Cô được đề cử giải nữ diễn viên xuất sắc nhất trong lễ trao giải điện ảnh Hàn Quốc, và cùng chia sẻ giải thưởng vinh dự với những đồng nghiệp khác trong bộ phim như Moon So-ri, Go Doo-shim và Kim Hye-ok tại liên hoan phim quốc tế Thessaloniki ở Hy Lạp.
Bộ phim "Family Ties" đánh dấu một bước ngoặt mới trong sự nghiệp của cô và giúp cô tìm lại được đam mê trong nghiệp diễn của mình. Năm 2007, cô trở lại màn ảnh với bộ phim Thank you. Nhiều diễn viên viên nữ đã từ chối vai diễn làm người phụ nữ đơn thân với đứa con gái nhỏ sống lạc quan dù bị nhiễm HIV và người ông bị chứng mất trí, một nguyên nhân khác cho việc này là sự trở lại màn ảnh của nam diễn viên Jang Hyuk sau scandal trốn nghĩa vụ quân sự. Mặc dù vậy, bộ phim đã gặt hái được thành công và vươn lên vị trí số một trong các bộ phim được phát sóng lúc bấy giờ. Người xem cảm động bởi tấm lòng nhân hậu và sự kiên trì của nhân vật đóng bởi Kong. Vai diễn người mẹ của cô làm cho hình ảnh của Kong trở nên mềm yếu nhưng đồng thời cô lại nhận được sự đánh giá rất cao trong việc bộc lộ chân thật sắc thái của nhân vật, giúp cho bộ phim không trở nên quá sướt mướt.
Sau Thank You, Kong quay trở lại đóng phim và đảm nhận các vai phụ để có cơ hội làm việc với các đạo diễn tài năng nhất Chungmuro. Cô đóng vai một bạn gái cũ lạnh lùng, vô tâm trong "Happiness" của Hur Jin-ho, một vị hôn thê đầy lo âu trong bộ phim tâm lý "M" của Lee Myung-se và một điệp viên trong phim hài parody "Dachimawa Lee" của Ryu Seung-wan.
Danh sách phim tham gia
[sửa | sửa mã nguồn]Phim điện ảnh
[sửa | sửa mã nguồn]Năm | Tựa | Vai diễn |
---|---|---|
1999 | Memento Mori | Ji-won |
2000 | Summer Story | Ham Bom |
2001 | Last Present | MC nữ (phân cảnh nhỏ) |
Guns & Talks | Yeo-il | |
Volcano High | So Yo-seon | |
2002 | Surprise Party | In-ju |
Emergency Act 19 | Kim Min-ji | |
A Bizarre Love Triangle | Geum-sook | |
Conduct Zero | Jang Na-young | |
2005 | Heaven's Soldiers | Kim Su-yeon |
2006 | Family Ties | Yoo Sun-kyung |
2007 | My Son | Con gái ngỗng Lồng tiếng (Vai trò khách mời) |
Happiness | Soo-yeon | |
M | Eun-hye | |
2008 | Dachimawa Lee | Geum Yeon-ja |
Crush and Blush | Yang Mi-sook | |
2009 | Sisters on the Road | Oh Myung-ju |
2010 | Rolling Home With a Bull | Hyun-soo |
2012 | Love Fiction | Lee Hee-jin |
2012: You Are More Than Beautiful | Young-hee | |
577 Project (Phim tư liệu) | Bản thân | |
2013 | Boomerang Family | Oh Mi-yeon |
2016 | Missing: Lost Woman | Han-mae |
2017 | Singer Rider | Soo-jin |
2018 | Và em sẽ đến | Cameo |
Door Lock | Cho Kyung-min | |
2019 | Hit And Run Squad | Eun Shi-yeon |
The Most Ordinary Romance | Oh Sun-young |
Phim truyền hình
[sửa | sửa mã nguồn]Năm | Tựa | Vai diễn | Đài trình chiếu |
---|---|---|---|
2000 | My Funky Family | Hyo-jin | MBC |
2001 | Wonderful Days | Jo Yeon-shil | SBS |
Love Without Hope | KBS2 | ||
2002 | Ruler of Your Own World | Song Mi-rae | MBC |
2003 | Snowman | Seo Yeon-wook | MBC |
Sang Doo! Let's Go to School | Chae Eun-hwan | KBS2 | |
2004 | 5 Stars | SK Telecom
moblie drama | |
2005 | Biscuit Teacher and Star Candy | Na Bo-ri | SBS |
2007 | Thank you | Lee Young-shin | MBC |
2010 | Pasta | Seo Yoo-kyung | MBC |
2011 | The Greatest Love | Gu Ae-jung | MBC |
Phim tư liệu: Do You Know Sad Movies? (Thời gian, tập 1) |
Narrator | MBC | |
Flower Boy Ramyun Shop | Thu ngân của cửa hàng (khách mời, tập 9) | TVN (Hàn Quốc) | |
2013 | Master's Sun | Tae Gong-shil | SBS |
2014 | It's Okay, That's Love | Ji Hae-soo | SBS |
2015 | The Producers | Tak Ye-jin | KBS2 |
2016 | Jealousy Incarnate | Pyo Na-ri | SBS |
2019 | When the Camellia Blooms | Dong-baek | KBS2 |
Music Video
Năm | Tên bài hát | Nghệ sĩ | Co-Star |
---|---|---|---|
2003 | (Part 1) "Left Alone" | Lee Soo Young | Goo Soo,Jo yoon hee |
(Part 2) " I Still Bite My Lips " | |||
" Brown Hair" | Yoon Gun | Yoon Gun |
Show thực tế
Năm | Chương trình | Tập |
---|---|---|
2012 | Running Man | 108 |
2020 | Three Meals A Day Fishing Village 5 | 03, 04 |
House on Wheels | 03, 04 |
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- Dịch từ Kong Hyo-jin bản tiếng Anh
- ^ “John Paul International College Newsletter - May 2011” (PDF). John Paul College. ngày 2 tháng 5 năm 2011. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 27 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2012.
- ^ “Goodwill Ambassadors”. Australia-Korea Year of Friendship. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2012.
- ^ Kim, Hee-jin. “Australia names 4 Korean Goodwill Ambassadors”. Korea JoongAng Daily. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2010.
- ^ “Today's Photo: ngày 15 tháng 10 năm 2010”. The Chosun Ilbo. ngày 15 tháng 10 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2012.
- ^ Kim, Hee-jin (ngày 31 tháng 1 năm 2011). “Australia and Korea fete 50 years of ties and friendship”. Korea JoongAng Daily. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2012.
- ^ Cerralbo, Yoav (ngày 22 tháng 5 năm 2011). “App showcases Australia year”. The Korea Herald. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2012.
- ^ Ho, Stewart (ngày 15 tháng 8 năm 2012). “Kong Hyo Jin and Ryu Seung Bum Call It Quits After 10 Years (Full Press Release)”. enewsWorld. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2012.
- ^ Nam, Yoon-seo (ngày 15 tháng 8 năm 2012). “Star couple breaks up”. The Korea Herald. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2012.
- ^ Sunwoo, Carla (ngày 16 tháng 8 năm 2012). “Celebrity couple back in friend zone”. Korea JoongAng Daily. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2012.
- ^ Hong, Lucia (ngày 16 tháng 8 năm 2012). “Kong Hyo-jin, Ryoo Seung-bum breaks off 10-year relationship”. 10Asia. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2012.
- ^ Oh, Mi-jung (ngày 21 tháng 8 năm 2012). “Kong Hyo Jin Opens about her Break Up With Ryu Seung Bum”. enewsWorld. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2012.[liên kết hỏng]
- ^ “단독-포토스토리: 공효진♥이진욱, 심야 올빼미 데이트 현장…'미공개 사진 대방출' Only”. Sports Seoul (bằng tiếng Hàn). ngày 29 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2014.
- ^ Ock, Hyun-ju (ngày 29 tháng 5 năm 2014). “Actress Kong Hyo-jin, actor Lee Jin-wook confirmed dating”. The Korea Herald. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2014.
- ^ Kim, Hee-eun (ngày 30 tháng 5 năm 2014). “Kong, Lee confirm their relationship”. Korea JoongAng Daily. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2014.
- ^ Park, Gyu-oh (ngày 17 tháng 9 năm 2014). “Kong Hyo-Jin and Lee Jin-wook break up”. The Korea Herald. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2014.
- ^ Lee, Sung-eun (ngày 18 tháng 9 năm 2014). “Kong Hyo-jin, Lee Jin-uk break up”. Korea JoongAng Daily. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2014.
- ^ Elley, Derek (ngày 27 tháng 3 năm 2000). “Memento Mori”. Variety. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2012.
- ^ Kim, Kyu Hyun. “Memento Mori”. Koreanfilm.org. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2012.
- ^ Paquet, Darcy (ngày 23 tháng 5 năm 2007). “An Interview with Kim Tae-yong”. Koreanfilm.org. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2012.
- ^ a b c Beck, Una (ngày 8 tháng 7 năm 2011). “INTERVIEW: Actress Kong Hyo-jin - Part 2”. 10Asia. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2012.
- ^ “Kong Hyo-jin Flashes Her Unique Charms in New Movie”. The Chosun Ilbo. ngày 25 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2012.
- ^ Lee, Nancy (ngày 14 tháng 11 năm 2012). “Six Cheesy Idol Movies to Watch on Movie Day”. enewsWorld. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2012.
- ^ “Ruler of Your Own World (2002, MBC miniseries)”. Koreanfilm.org. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2012.
- ^ Paquet, Darcy. “Conduct Zero”. Koreanfilm.org. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2012.
- ^ “Snowman”. Koreanfilm.org. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2012.
- ^ "2003 KBS Drama Awards" (in Korean). KBS Drama Awards. Truy cập 2012-11-27.
- ^ Min, Dong-yong (ngày 24 tháng 6 năm 2005). “Heaven's Soldiers: Movie and Life of Park Joong-hoon and Kim Seung-woo”. The Dong-a Ilbo. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2012.
- ^ “K-FILM REVIEWS: 천군 (Heaven's Soldiers)”. Twitch Film. ngày 22 tháng 10 năm 2005. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2012.
- ^ Kim, Se-yoon. “Film2.0 Interview with Kong Hyo-Jin”. Twitch Film. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2005.[liên kết hỏng]
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- Gong Hyo-jin trên HanCinema
- Gong Hyo-jin tại Korean Movie Database
- Gong Hyo-jin trên IMDb