Tàu điện ngầm
Metro, hay còn gọi là rapid transit, mass rapid transit (MRT) hoặc đường sắt nặng (tiếng Anh: heavy rail),[2][3] là một loại hình giao thông công cộng công suát lớn thường được xây dựng tại các đô thị. Một tuyến metro phân mức đi bên dưới mặt đất bằng đường hầm có thể được gọi là tàu điện ngầm (tiếng Anh: subway, tube hoặc underground).[4][5][6][7] Đôi khi các hệ thống này cũng được phân mức để chạy trên đường ray trên cao, khi đó chúng có thể được gọi là skytrain hoặc el train – viết tắt của từ "elevated" (trên cao). Các hệ thống metro là những tuyến đường sắt, thường được điện khí hóa, hoạt động trên phần đường riêng biệt, không cho phép người đi bộ hay các phương tiện khác tiếp cận, khác với những loại hình như xe buýt hay xe điện mặt đất.[8]
Dịch vụ trên các hệ thống metro hiện đại được cung cấp trên các tuyến cố định giữa các nhà ga, thường sử dụng tàu điện động lực phân tán chạy trên đường ray. Một số hệ thống sử dụng tàu lốp cao su có dẫn hướng, tàu đệm từ, hay tàu một ray. Các nhà ga thường có ke ga cao, đòi hỏi phải sử dụng những đoàn tàu được thiết kế riêng để giảm thiểu tối đa khoảng hở giữa tàu và ke ga. Metro thường được tích hợp với các loại hình giao thông công cộng khác và được vận hành bởi cùng một cơ quan quản lý giao thông công cộng. Một số tuyến metro có thể có giao cắt cùng mức với đường bộ hoặc các tuyến metro khác.[9]
Hệ thống metro đầu tiên trên thế giới là Metropolitan Railway được mở cửa vào năm 1863 sử dụng tàu đầu máy hơi nước, nay là một phần của Tàu điện ngầm Luân Đôn.[10] Năm 1868, New York khai trương tuyến đường sắt trên cao West Side and Yonkers Patent Railway, ban đầu sử dụng đoàn tàu động cơ hơi nước cố định được kéo bằng dây cáp.
Tính đến năm 2021[cập nhật], Trung Quốc có số lượng hệ thống metro lớn nhất thế giới với 40 hệ thống,[11] hơn 4.500 km (2.800 mi) đường ray, và cũng là nơi diễn ra hầu hết các hoạt động mở rộng vận tải công cộng nhanh trong thập niên 2010.[12][13][14] Hệ thống metro dài nhất thế giới tính theo chiều dài tuyến đường là Tàu điện ngầm Thượng Hải.[15][16] Đơn vị cung cấp dịch vụ metro lớn nhất thế giới tính theo số nhà ga (với tổng cộng 472 ga)[17] là Tàu điện ngầm Thành phố New York. Những hệ thống metro bận rộn nhất thế giới tính theo lượt hành khách hàng năm là Tàu điện ngầm Thượng Hải, hệ thống tàu điện ngầm Tokyo, Seoul Metro và Tàu điện ngầm Moskva.
Thuật ngữ
sửaMetro là thuật ngữ được những người không nói tiếng Anh bản địa sử dụng rộng rãi nhất để chỉ các hệ thống vận tải công cộng nhanh đi ngầm dưới lòng đất.[18] Các hệ thống metro có thể được đặt tên theo phương thức di chuyển của hành khách trong những khu vực quận kinh doanh trung tâm bận rộn; việc sử dụng đường hầm dưới lòng đất tạo ra những tên gọi như tàu điện ngầm trong tiếng Việt, subway,[19] underground trong tiếng Anh,[20] Untergrundbahn (U-Bahn) trong tiếng Đức,[21] hay Tunnelbana (T-bana) trong tiếng Thụy Điển.[22] Trong khi đó, các hệ thống sử dụng cầu có thể sử dụng những tên gọi như đường sắt trên cao trong tiếng Việt, elevated (viết tắt thành L hoặc el), skytrain,[23] overhead, overground trong tiếng Anh, hay Hochbahn trong tiếng Đức. Một trong những tên gọi này có thể được áp dụng cho toàn bộ hệ thống, cho dù phần lớn mạng lưới có thể chạy trên mặt đất, ví dụ như tại những khu vực ngoại ô.
Tại Anh Quốc
sửaTại hầu hết Anh, Wales và Scotland, từ subway dùng để chỉ đường hầm dành cho người đi bộ. Các tên gọi Underground và Tube được dùng để chỉ hệ thống Tàu điện ngầm London. Hệ thống Tàu điện ngầm Tyne và Wear ở Đông Bắc Anh, hầu hết chạy trên mặt đất, được gọi bằng cái tên Metro. Tại Scotland, hệ thống Tàu điện ngầm Glasgow sử dụng tên gọi Subway.
Tại Bắc Mỹ
sửaCác hệ thống metro khắp Bắc Mỹ có nhiều tên gọi khác nhau. Tên gọi metro là cách gọi ngắn để ám chỉ vùng đô thị (tiếng Anh: metropolitan area). Những hệ thống vận chuyển nhanh như Washington Metrorail, Los Angeles Metro Rail, Miami Metrorail, và Montreal Metro thường được gọi là Metro. Tại Philadelphia, từ "El" được sử dụng để chỉ Tuyến Market–Frankford chạy chủ yếu trên đường ray trên cao, trong khi tên gọi "subway" được dùng cho Tuyến Broad Street chạy hầu hết ở dưới lòng đấy. Hệ thống đường sắt ngoại ô của Chicago phục vụ cho toàn bộ vùng đô thị được gọi là Metra (cách gọi tắt của Metropolitan Rail), trong khi hệ thống vận chuyển nhanh phục vụ cho thành phố này được gọi là "L". Hệ thống tàu điện ngầm của Boston được người dân ở đây gọi là "The T". Tại Atlanta và Khu vực Vịnh San Francisco, các hệ thống metro được biết tới qua các tên viết tắt của từng hệ thống, lần lượt là "MARTA" (Metropolitan Atlanta Rapid Transit Authority) và "BART" (Bay Area Rapid Transit).[24][25]
Hệ thống Tàu điện ngầm Thành phố New York được gọi đơn giản là "the subway" (tàu điện ngầm), mặc dù 40% mạng lưới chạy nổi trên mặt đất hoặc trên cao. Thuật ngữ "L" hoặc "El" nói chung không được dùng cho các tuyến đi trên cao bởi mọi tuyến trong hệ thống đều đã được ký hiệu bằng chữ và số. Chuyến tàu "L" là cách gọi để chỉ cụ thể tuyến 14th Street–Canarsie Local, chứ không dùng để chỉ các tuyến tàu trên cao khác. Tương tự như vậy, mạng lưới Tàu điện ngầm Toronto cũng được gọi là "the subway", mặc dù có một số đoạn chạy nổi. Đây là hai hệ thống duy nhất tại Bắc Mỹ có tên gọi "subway".
Tại các khu vực khác
sửaỞ hầu hết Đông Nam Á và Đài Loan, các hệ thống metro chủ yếu được gọi bằng tên viết tắt MRT. Ý nghĩa của tên gọi này có sự khác nhau ở mỗi nước. Tại Indonesia, đây là cách viết tắt của Moda Raya Terpadu, trong tiếng Việt có nghĩa là Phương thức [Vận chuyển] Đại chúng Tích hợp.[26] Tại Philippines, tên gọi này có nghĩa là Metro Rail Transit.[27] Có hai tuyến đi ngầm được sử dụng thuật ngữ subway. Tại Thái Lan, tên gọi MRT là viết tắt của Metropolitan Rapid Transit; trước đó tại đây vẫn áp dụng tên gọi Mass Rapid Transit.[28] Những thành phố khác ngoài Đông Nam Á như Cao Hùng, Đào Viên ở Đài Loan hay nhiều nơi ở Singapore và Malaysia đều có các hệ thống MRT với ý nghĩa là Mass Rapid Transit.[29][30][31][32]
Lịch sử
sửaSự kiện khai trương tuyến tàu hơi nước Metropolitan Railway tại London vào năm 1863 đánh dấu sự khởi đầu của metro. Do sử dụng tàu động cơ hơi nước chạy ngầm nên mặc dù có thông gió nhưng trải nghiệm của hành khách vẫn không thực sự thoải mái. Những cuộc thử nghiệm đường sắt chạy bằng khí nén đã thất bại trong việc triển khai mở rộng tại các thành phố.
Vào năm 1890, City & South London Railway trở thành tuyến đường sắt vận chuyển nhanh chạy bằng điện đầu tiên.[33] Trước khi mở cửa, tuyến này được đặt tên là "City and South London Subway" do chạy hoàn toàn dưới lòng đất; đây cũng là lần đầu tiên thuật ngữ Subway được giới thiệu.[34] Cả hai tuyến đường sắt này về sau đều được sáp nhập vào hệ thống Tàu điện ngầm London. Tuyến Liverpool Overhead Railway mở năm 1893 đã được thiết kế sử dụng sức kéo điện ngay từ đầu.[35]
Công nghệ này nhanh chóng lan rộng ra các thành phố khác tại châu Âu, Hoa Kỳ, Argentina và Canada. Tại đây, một số tuyến đường sắt được chuyển đổi từ tàu hơi nước trong khi các tuyến khác đã được thiết kế điện khí hóa ngay từ đầu. Budapest, Chicago, Glasgow, Boston và Thành phố New York đều đã chuyển đổi hoặc thiết kế riêng và xây dựng các dịch vụ đường sắt chạy bằng điện.[36]
Những tiến bộ trong công nghệ metro đã cho phép nhiều dịch vụ tự động mới được triển khai. Nhiều giải pháp kết hợp cũng đã được sinh ra, ví dụ như tram-train (kết hợp giữa xe điện mặt đất và tàu hỏa) và tiền metro, sở hữu một số đặc điểm của các hệ thống metro.[33] Một số thành phố đã chọn xây dựng các hệ thống xe điện mặt đất vì những lý do liên quan đến chi phí, kỹ thuật và địa hình, nhất là ở những thành phố tại Úc, nơi có mật độ dân số thấp và những khu ngoại ô thường mở rộng không kiểm soát.[37] Kể từ thập niên 1970, tính khả thi của những hệ thống tàu điện ngầm tại các thành phố ở Úc, cụ thể là Sydney và Melbourne, đã được tái cân nhắc và đề xuất như một giải pháp cho vấn đề mật độ dân số quá cao. Melbourne bắt đầu xây dựng các đường hầm và nhà ga vào thập niên 1970 và mở cửa vào năm 1980. Tuyến đầu tiên của hệ thống Sydney Metro được khai trương vào năm 2019.[38]
Kể từ những năm 1960, nhiều hệ thống mới đã được đưa vào sử dụng tại châu Âu, châu Á và Mỹ Latinh.[21] Trong thế kỷ 21, hầu hết các hệ thống và tuyến metro mới đều nằm tại châu Á, trong đó Trung Quốc đã trở thành nước đứng đầu thế giới về mở rộng metro, đồng thời vận hành nhiều hệ thống thuộc hàng lớn nhất và bận rộn nhất. Gần 60 thành phố tại Trung Quốc đã, đang và dự định sẽ xây dựng các hệ thống metro.[39][40]
Vận hành
sửaMetro được sử dụng tại các thành phố, đô thị và vùng đô thị để chuyên chở số lượng lớn hành khách, thường là sử dụng cho mục đích di chuyển quãng đường ngắn, với tần suất chạy tàu lớn.[8] Quy mô của hệ thống metro có sự khác biệt lớn giữa các thành phố, tuân theo những chiến lược quy hoạch giao thông khác nhau.[7]
Một số hệ thống chỉ mở rộng trong phạm vi bên trong khu vực nội thành, hoặc ra tới rìa phía trong của khu vực ngoại ô với những đoàn tàu thường xuyên dừng đón trả khách tại các nhà ga. Khu vực ngoại ô phía ngoài có thể được tiếp cận bằng một mạng lưới đường sắt ngoại ô riêng biệt, nơi mà các nhà ga được phân bố xa nhau hơn, cho phép tàu chạy với tốc độ cao hơn. Trong một số trường hợp, sự khác biệt giữa hệ thống đường sắt trong đô thị và ngoại ô không còn được thể hiện rõ ràng.[6]
Các hệ thống metro có thể được bổ sung bằng những loại hình khác như xe điện bánh hơi, xe buýt thông thường, xe điện mặt đất hay đường sắt ngoại ô. Việc kết hợp các phương thức vận chuyển nhằm bù đắp một số hạn chế của metro như số lượng điểm dừng giới hạn và khoảng cách đi bộ dài giữa các điểm tiếp cận nhà ga. Một số hệ thống buýt hoặc xe điện mặt đất trung chuyển hành khách tới các điểm dừng metro.[42]
Tuyến đường
sửaMỗi hệ thống metro bao gồm một hoặc nhiều tuyến. Mỗi tuyến được phục vụ bởi ít nhất một lộ trình cụ thể với các đoàn tàu dừng tại một số hoặc tất cả các ga trên tuyến. Hầu hết hệ thống đều vận hành nhiều tuyến, được phân biệt bằng màu sắc, tên gọi, số hiệu, hoặc kết hợp nhiều phương thức trên. Một số tuyến có thể dùng chung đường ray với nhau ở một phần lộ trình của mình, hoặc hoạt động trên phần đường riêng biệt. Thông thường, một tuyến khi chạy qua trung tâm thành phố sẽ phân ra làm hai hay nhiều nhánh ở khu vực ngoại ô, cho phép tần suất phục vụ cao hơn ở trung tâm. Cách sắp xếp này được sử dụng trong nhiều hệ thống, như Copenhagen Metro,[46] Milan Metro, Tàu điện ngầm Oslo, Istanbul Metro và Tàu điện ngầm Thành phố New York.[47]
Ngoài ra, ở trung tâm thành phố có thể có một nhà ga trung tâm lớn (thường dùng chung với ga đường sắt trung tâm chính), hoặc nhiều điểm trung chuyển giữa các tuyến, ví dụ như tại Metro Praha.[48] Tàu điện ngầm London[49] và Métro Paris[50] là những hệ thống được xây dựng dày đặc với một ma trận các tuyến đường giao cắt nhau khắp thành phố. Hệ thống Chicago 'L' thiết kế hầu hết các tuyến giao nhau tại The Loop, khu vực trung tâm kinh doanh, tài chính và văn hóa chính của thành phố. Một số hệ thống có tuyến vòng tròn/vành đai đi vòng quanh trung tâm thành phố và kết nối với các tuyến hướng tâm khác, ví dụ như Tuyến Koltsevaya của Moskva Metro và Tuyến 10 của Tàu điện ngầm Bắc Kinh.
Công suất của một tuyến được tính bắng cách nhân sức chứa của toa xe với độ dài của đoàn tàu và tần suất phục vụ. Các đoàn tàu metro "nặng" có thể có từ 6 đến 12 toa, trong khi những hệ thống nhẹ hơn có thể dùng đoàn tàu chỉ có 4 toa hoặc ít hơn. Các toa có sức chứa từ 100 đến 150 hành khách, tùy thuộc vào tỷ số giữa lượng hành khách ngồi và đứng – nhiều chỗ đứng hơn sẽ dẫn tới sức chứa lớn hơn. Khoảng thời gian tối thiểu giữa các chuyến tàu metro sẽ ngắn hơn so với đường sắt tuyến chính nhờ việc sử dụng hệ thống điều khiển tàu dựa trên liên lạc: thời gian tối thiểu giữa các chuyến có thể chỉ còn 90 giây, nhưng nhiều hệ thống thường áp dụng khoảng thời gian 120 giây để cho phép phục hồi sau các sự cố trì hoãn. Các tuyến thông thường có thể chuyên chở 1.200 hành khách mỗi chuyến, tương đương với 36.000 hành khách/giờ/hướng. Tuy nhiên, nhiều nơi tại khu vực Đông Á đã đạt được công suất cao hơn nhiều, cụ thể là các tuyến tàu đô thị của MTR Corporation tại Hồng Kông có thể chở từ 75.000 tới 85.000 người/giờ.[51][52][53]
Cấu trúc mạng lưới
sửaCấu trúc tô pô của mạng lưới metro được quyết định bởi nhiều yếu tố, bao gồm rào cản địa lý, thói quan di chuyển hiện tại hoặc dự kiến trong tương lai, chi phí xây dựng, các ràng buộc về chính trị và lịch sử. Một hệ thống metro được quy hoạch phục vụ cho một khu vực nhất định bằng các tuyến; hình dạng mỗi tuyến có thể so sánh với hình các chữ cái như "I", "L", "U", "S" hay "O". Rào cản về địa lý có thể tạo ra những vị trí mà các tuyến metro phải hội tụ với nhau (ví dụ như để vượt qua một vùng nước nào đó); đây là những nơi có thể gây tắc nghẽn nhưng cũng đem lại cơ hội để trở thành điểm trung chuyển hành khách giữa các tuyến.[54]
Các tuyến vành đai cung cấp độ bao phủ dịch vụ tốt, cho phép hành khách kết nối với các tuyến xuyên tâm và phục vụ những lộ trình đi theo kiểu tiếp tuyến ở rìa ngoài mà không cần phải tiến vào phần lõi trung tâm đông đúc của hệ thống. Một mạng lưới có hình dạng kẻ ô có thể cung cấp nhiều lộ trình khác nhau cho hành khách, trong khi vẫn duy trì được tốc độ và tần suất phục vụ hợp lý.[54] Nghiên cứu trên 15 hệ thống tàu điện ngầm lớn nhất thế giới cho thấy các hệ thống này có thể quy về một hình dạng chung, bao gồm phần lõi dày đặc và các tuyến nhánh tỏa ra từ nó.[55]
-
Đường thẳng, v.d. Almaty, Baltimore, Cleveland, Dhaka, Gwangju, Hà Nội, Hiroshima, Honolulu, İzmir, Jakarta, Kazan, Lima, Maracaibo, Navi Mumbai, Quito, Sydney, Valencia (Venezuela), Yekaterinburg
-
Hình chữ thập, v.d. Ahmedabad, Atlanta, Bangalore, Hohhot, Incheon, Cao Hùng, Kyōto, Lạc Dương, Nagpur, Thành phố Panama, Philadelphia (SEPTA), Pune, Bình Nhưỡng, Rotterdam, Santo Domingo, Sendai, Warzawa.
-
Hình chữ X, v.d. Algiers, Recife, Amsterdam, Bilbao, Brasillia, Bruxelles, Helsinki, Rio de Janeiro, Miami, Nizhny Novgorod, Khu vực Vịnh San Francisco, Stockholm, Thessaloniki, Yokohama
-
Xuyên tâm, v.d. Boston, Budapest, Buenos Aires, Chicago, Daegu, Doha, Los Angeles, Sapporo, Thành phố Hồ Chí Minh, Washington DC
-
Vòng tròn-xuyên tâm, v.d. Bangkok, Bắc Kinh, Bucharest, Thành Đô, Trùng Khánh, Copenhagen, Delhi, Hamburg, London, Madrid, Moskva, Nagoya, Paris, Seoul, Thượng Hải, Singapore, Tokyo, Trịnh Châu
-
Hình kẻ ô phức tạp, v.d. Barcelona, Berlin, Quảng Châu, Hàng Châu, Hồng Kông, Thành phố México, Milano, Mumbai, Nam Kinh, Thành phố New York, Osaka, Santiago, Thâm Quyến, Đài Bắc, Tehran, Thiên Tân, Viên, Vũ Hán
Thông tin hành khách
sửaCác đơn vị vận hành metro thường đẩy mạnh xây dựng nhãn hiệu cho hệ thống của mình, tập trung vào khả năng dễ dàng nhận diện – cho phép hành khách nhanh chóng phát hiện dịch vụ kể cả khi các thành phố lớn có rất nhiều loại biển báo – kết hợp với mong muốn thể hiện tốc độ, sự an toàn của hệ thống và quyền hạn của đơn vị.[56] Ở nhiều thành phố, toàn bộ cơ quan quản lý giao thông công cộng chỉ có một bộ nhận diện thương hiệu duy nhất, nhưng hệ thống metro vẫn sử dụng biểu trưng riêng sao cho phù hợp.
Bản đồ giao thông công cộng (tiếng Anh: transit map) là một loại bản đồ tô pô hoặc sơ đồ dùng để thể hiện các tuyến đường và nhà ga trong hệ thống giao thông công cộng. Những thành phần chính bao gồm các đường mang màu sắc khác nhau biểu thị cho mỗi tuyến hoặc dịch vụ, cùng với các biểu tượng và tên gọi để biểu thị các nhà ga. Bản đồ có thể chỉ hiển thị hệ thống metro hoặc có thể kèm theo cả những loại hình giao thông công cộng khác.[57] Chúng có thể được tìm thấy trên các phương tiện vận chuyển, trên ke ga, xung quanh nhà ga, hoặc cùng với bản in thời gian biểu chạy tàu. Bản đồ giúp hành khách hiểu về tính liên kết giữa các phần khác nhau trong hệ thống; ví dụ, chúng biểu thị các ga trung chuyển nơi hành khách có thể chuyển giữa các tuyến. Khác với bản đồ thường, bản đồ giao thông công cộng thường không chính xác về mặt địa lý, nhưng nhấn mạng vào các kết nối tô pô giữa những nhà ga. Cách trình bày có thể sử dụng các đường thẳng và góc cố định, và thường có khoảng cách tối thiểu cố định giữa các ga, nhằm đơn giản hóa hình dạng của mạng lưới vận tải công cộng. Thông thường điều này dẫn tới việc khoảng cách giữa các ga ở phía ngoài hệ thống bị thu hẹp lại, còn các ga gần trung tâm lại tách xa nhau.[57]
Một số hệ thống chỉ định các mã định danh bằng chữ và số cho mỗi nhà ga để giúp hành khách nhận diện; mã định danh này thể hiện ngắn gọn các thông tin về tuyến đường của ga và vị trí của ga trên tuyến.[58] Ví dụ với hệ thống MRT tại Singapore, ga MRT Sân bay Changi có mã định danh là CG2, cho thấy đây là nhà ga thứ 2 thuộc nhánh Sân bay Changi của Tuyến Đông Tây. Các nhà ga trung chuyển sẽ có ít nhất hai mã định danh; ví dụ như ga MRT Raffles Place có hai mã là NS26 và EW14, cho thấy đây là ga thứ 26 của tuyến Bắc Nam (North South Line) và là ga thứ 14 của Tuyến Đông Tây (East West Line).
Hệ thống Tàu điện ngầm Seoul là một ví dụ khác của việc sử dụng mã định danh cho các nhà ga. Khác với MRT của Singapore, các mã này chủ yếu sử dụng số. Ví dụ, ga Sinyongsan được đặt mã nhà ga là 429. Chữ số đầu tiên cho thấy đây là nhà ga thuộc Tuyến 4. Hai chữ số còn lại là số của ga trên tuyến đó. Các ga trung chuyển có thể có nhiều mã. Ví dụ như ga Tòa thị chính là nơi trung chuyển của Tuyến 1 và Tuyến 2. Do đó nhà ga này lần lượt có các mã là 132 và 201. Tuyến 2 là một tuyến vòng tròn và điểm dừng đầu tiên là Tòa thị chính, do đó, nhà ga này có mã là 201. Với các tuyến không có số như tuyến Bundang, các nhà ga sẽ dùng mã có cả chữ và số. Các tuyến không có số được KORAIL vận hành sẽ có mã ga bắt đầu bằng chữ 'K'.
Với sự phát triển của Internet và điện thoại di động, các đơn vị vận hành đang tận dụng những công nghệ này để cung cấp thông tin cho người dùng. Ngoài bản đồ và thời gian biểu trực tuyến, một số đơn vị vận hành còn cung cấp thông tin thời gian thực cho phép hành khách biết khi nào chuyến tàu tiếp theo sẽ tới, và thời gian di chuyển dự kiến. Chuẩn định dạng dữ liệu GTFS dành cho thông tin giao thông công cộng cho phép nhiều nhà phát triển phần mềm bên thứ ba sản xuất các trang web và ứng dụng di động nhằm cung cấp thông tin cập nhật được tùy chỉnh cho hành khách về các tuyến metro và nhà ga.
Hệ thống Tàu điện ngầm Thành phố México sử dụng các biểu trưng bằng hình ảnh cho mỗi ga. Ban đầu được triển khai với mong muốn giúp bản đồ mạng lưới "dễ đọc hơn" với người không biết chữ, cách làm này nay đã trở thành một "biểu tượng" của hệ thống.
An toàn và an ninh
sửaSo với các loại hình vận tải khác, metro có lịch sử an toàn tốt và ít xảy ra tai nạn. Các hình thức vận tải bằng đường sắt chịu sự quản lý an toàn nghiêm ngặt, trong đó có những yêu cầu về quy trình vận hành và bảo dưỡng để giảm thiểu rủi ro. Những vụ va chạm trực diện hiếm khi xảy ra nhờ việc sử dụng đường đôi, đồng thời tốc độ vận hành thấp cũng làm giảm số lượng cũng như tính chất nghiêm trọng của các vụ va chạm từ phía sau hay trật bánh. Cháy là mối nguy hiểm tiềm tàng hơn đối với các hệ thống tàu điện ngầm, ví dụ như vụ cháy King's Cross tại London vào tháng 11 năm 1987 khiến 31 người thiệt mạng. Các hệ thống metro thường được xây dựng sao cho công tác sơ tán đoàn tàu có thể diễn ra tại nhiều vị trí trong hệ thống.[59][60]
Ke ga cao, thường ở mức trên 1 mét / 3 feet, cũng là một yếu tố gây nguy hiểm, khi mà hành khách bị rơi xuống đường ray có thể gặp khó khăn trong việc trèo lên. Cửa chắn sân ga được sử dụng ở một số hệ thống để loại bỏ mối nguy này.
Cơ sở vật chất metro là những không gian công cộng và có thể xảy ra những vấn đề an ninh: một số tội phạm nhẹ như móc túi và trộm hành lý, cùng với những tội phạm bạo lực nghiêm trọng hơn, cũng như các hành vi tấn công tình dục trên những chuyến tàu và sân ga đông đúc.[61][62] Các biện pháp an ninh bao gồm giám sát bằng hình ảnh hoặc bố trí các nhân sự như nhân viên bảo vệ và trưởng tàu. Ở một số quốc gia, một lực lượng cảnh sát giao thông công cộng đặc biệt có thể được thiết lập. Những biện pháp an ninh trên thường được tích hợp với các biện pháp bảo vệ doanh thu bằng cách kiểm tra và đảm bảo những người không trả tiền sẽ không được sử dụng dịch vụ.[63]
Một số hệ thống metro, ví dụ như Tàu điện ngầm Bắc Kinh, được tổ chức Worldwide Rapid Transit Data xếp hạng là "Mạng lưới giao thông công cộng nhanh an toàn nhất thế giới" năm 2015, áp dụng các điểm kiểm tra an ninh giống như sân bay tại mọi nhà ga. Các hệ thống metro đã từng trở thành mục tiêu của những vụ tấn công khủng bố gây nhiều thương vong, ví dụ như vụ tấn công bằng khí sarin trên tàu điện ngầm Tokyo vào năm 1995[64] và vụ đánh bom khủng bố "7/7" trên tàu điện ngầm London vào năm 2005.
Tiện ích bổ sung
sửaMột số đoàn tàu metro có những tiện ích bổ sung như ổ cắm điện, sóng điện thoại di động – thường thông qua việc sử dụng cáp dẫn rò (leaky feeder) trong đường hầm và ăngten DAS trong các ga – và kết nối Wi-Fi. Hệ thống metro đầu tiên trên thế giới cho phép thu sóng điện thoại di động hoàn chỉnh trong các nhà ga ngầm và đường hầm là MRT của Singapore; thành phố đã ra mắt mạng di động ngầm đầu tiên sử dụng chuẩn AMPS vào năm 1989.[65] Nhiều hệ thống metro, như MTR của Hồng Kông và U-Bahn của Berlin, cung cấp kết nối dữ liệu di động trong các đường hầm dành cho nhiều nhà cung cấp mạng khác nhau.
Cơ sở vật chất
sửaCông nghệ sử dụng bởi các tuyến metro đã trải qua nhiều thay đổi đáng kể kể từ khi hệ thống Metropolitan Railway được khai trương tại London vào năm 1863.[5][6]
Các tuyến monorail với đoàn tàu lớn hơn và dài hơn có thể được phân loại là metro.[cần dẫn nguồn] Những hệ thống monorail như vậy gần đây đã bắt đầu xuất hiện tại Trùng Khánh và São Paulo. Metro nhẹ là một loại hình con của metro với tốc độ và thiết kế phân mức giống như một hệ thống "metro hoàn chỉnh", nhưng được xây dựng để phục vụ lượng hành khách nhỏ hơn. Nó thường có khổ tải nhỏ hơn và các đoàn tàu nhỏ nhẹ hơn, thường bao gồm từ 2 đến 4 toa. Metro nhẹ thường được sử dụng làm các tuyến nhánh thu gom hành khách cho hệ thống metro chính.[66] Ví dụ như Tuyến Văn Hồ của hệ thống đường sắt đô thị Đài Bắc phục vụ nhiều khu dân cư nằm rải rác, với mục đích thu gom hành khách cho các tuyến metro công suất lớn.
Một số hệ thống được xây dựng từ đầu, trong khi các hệ thống khác lại được nâng cấp hoặc chuyển đổi từ những hệ thống đường sắt hoặc xe điện mặt đất ngoại ô trước đây, có thể bổ sung thêm các đoạn đi ngầm hoặc trên cao trong trung tâm thành phố.[22] Những đoạn metro chạy trên mặt đất với phần đường riêng thường chỉ sử dụng ở bên ngoài khu vực dân cư đông đúc, bởi chúng tạo ra các rào cản vật lý cho giao thông đô thị, gây cản trở dòng di chuyển của người và phương tiện tham gia giao thông, đồng thời cũng chiếm nhiều diện tích mặt đất hơn. Thiết kế kiểu này thường được áp dụng cho các hệ thống mới ở những khu vực dự kiến sẽ được lấp đầy bằng các tòa nhà sau khi tuyến đường đã hoàn thành.[67]
Đoàn tàu
sửaHầu hết hệ thống metro sử dụng tàu điện động lực phân tán với chiều dài từ 3 đến hơn 10 toa.[68] Số lượng nhân sự chạy tàu đang giảm dần theo thời gian, khi mà một số hệ thống hiện đại nay đã chạy các đoàn tàu không người lái hoàn toàn.[69] Các hệ thống còn lại tiếp tục được vận hành có người lái, kể cả khi vai trò duy nhất của họ khi trong quy trình vận hành thông thường chỉ là mở và đóng cửa tàu tại các ga. Năng lượng thường được cung cấp bằng một thanh ray thứ ba hoặc đường dây trên cao. Toàn bộ mạng lưới Tàu điện ngầm London sử dụng ray thứ tư để cung cấp điện, trong khi các hệ thống khác dùng động cơ tuyến tính để sinh lực đẩy.[70]
Một số tuyến đường sắt đô thị được xây dựng với khổ tải lớn tương đương với các tuyến đường sắt chính; số khác được thiết kế khổ tải nhỏ hơn và có thể có những đoạn hầm làm giới hạn kích cỡ và hình dạng thân tàu. Một ví dụ nổi bật là hầu hết hệ thống Tàu điện ngầm London phải sử dụng các đoàn tàu hình ống trụ trên các tuyến đi ngầm, khiến nhiều người hay gọi hệ thống này bằng cái tên "tàu ống" (tube train).
Trước đây, các đoàn tàu metro sử dụng quạt trần và cửa sổ đóng mở để cung cấp không khí sạch và làm mát bằng gió cho hành khách. Từ những năm 1950 tới 1990 (và tại hầu hết châu Âu cho tới thập niên 2000), nhiều đoàn tàu metro cũng được trang bị hệ thống thông gió ép trên trần tàu để đem lại sự thoải mái cho hành khách. Những mẫu đoàn tàu đầu tiên có thể được trang bị điều hòa không khí, ví dụ như K-series của Đường sắt Hudson và Manhattan[71] từ năm 1958, R38 và R42 của Tàu điện ngầm Thành phố New York từ cuối thập niên 1960, cùng với series 3000 của Tàu điện ngầm Thành phố Nagoya, series 10 của Tàu điện ngầm Thành phố Osaka[72] và M-Train của MTR Hồng Kông từ thập niên 1970, phần lớn là do khổ tải khá rộng rãi của các hệ thống metro này cũng như những đoạn đường chạy ngoài trời có tác dụng phân tán nhiệt từ hệ thống điều hòa. Đặc biệt ở một số hệ thống metro như Montreal Metro[73] (mở cửa năm 1966) và Tàu điện ngầm Thành phố Sapporo (mở cửa năm 1971), do sử dụng công nghệ lốp cao su để thích nghi với lượng tuyết rơi dày trong mùa đông, các đoàn tàu buộc phải chạy trong môi trường kín hoàn toàn. Việc bổ sung hệ thống điều hòa không khí tại hai mạng lưới trên là bất khả thi bởi các đường hầm kín sẽ khiến nhiệt không thể thoát ra, làm nhiệt độ trong tàu tăng lên trên mức an toàn cho hành khách và quy trình chạy tàu.
Tại nhiều thành phố, mỗi tuyến metro có thể vận hành phương tiện có kích thước và chủng loại khác nhau. Mặc dù các tuyến này có thể không liên kết bằng đường ray, những đoàn tàu có khổ tải nhỏ hơn từ khi cần có thể được sử dụng trên các tuyến khác mà thông thường sẽ vận hành các đoàn tàu lớn hơn. Ở một số hệ thống, đây là một phần trong quy trình vận hành thông thường.
Đường ray
sửaHầu hết hệ thống metro sử dụng đường ray khổ tiêu chuẩn thông thường. Do đường ray trong hầm ngầm không phải chịu mưa, tuyết hay các loại giáng thủy khác, chúng thường được gắn cố định xuống mặt sàn thay vì phải rải một lớp đá ba-lát bên dưới như đường sắt thông thường.
Một công nghệ khác sử dụng bánh xe lốp cao su chạy trên bê tông hẹp hoặc thanh dẫn bằng thép (roll way) đã được áp dụng trên một số tuyến của Métro Paris và Tàu điện ngầm Thành phố México, sau đó đã được lần đầu tiên triển khai trên toàn bộ hệ thống metro tại Montreal, Canada. Ở hầu hết các hệ thống như vậy, đoàn tàu sẽ được trang bị thêm các bánh xe ngang để dẫn hướng, đồng thời hệ thống đường ray thông thường vẫn sẽ được lắp đặt phòng trường hợp lốp bị xịt hoặc cần chuyển ghi. Một số hệ thống metro lốp cao su cũng sử dụng thanh ray dẫn hướng ở giữa, ví dụ như Tàu điện ngầm Thành phố Sapporo và NeoVal ở Rennes, Pháp. Những người ủng hộ cách tiếp cận này cho rằng nó ít gây tiếng ồn hơn so với tàu bánh sắt truyền thống, đồng thời cho phép tàu leo và xuống dốc dễ dàng hơn nhờ vào lực cản từ lốp cao su. Tuy nhiên, nó thường có chi phí bảo trì cao hơn và sử dụng năng lượng kém hiệu quả hơn. Lực cản cũng dễ bị mất đi khi điều kiện thời tiết ẩm ướt hoặc băng giá, khiến khả năng chạy tàu ngoài trời là không thể hoặc bị hạn chế tại Montreal và Sapporo.[74]
Một số thành phố có địa hình đồi dốc sử dụng các công nghệ đường sắt leo núi trong hệ thống metro của mình. Tuyến C của Lyon Metro có một đoạn sử dụng đường ray răng cưa, trong khi thành phố Haifa cũng cho xây dựng tuyến đường sắt leo núi dưới lòng đất mang tên Carmelit.
Với các tuyến trên cao, monorail cũng là một lựa chọn thay thế khác. Hệ thống monorail có thể được thiết kế theo dạng cưỡi thanh dầm (straddle-beam monorail) hoặc dạng monorail treo. Trong khi monorail chưa thực sự được chấp nhận tại nhiều nơi ngoài Nhật Bản, một số tuyến monorail như tại Trùng Khánh đang được sử dụng rộng rãi trong các mạng lưới metro.
Cung cấp năng lượng
sửaMặc dù các đoàn tàu trên những hệ thống metro đầu tiên như Metropolitan Railway được kéo bằng động cơ hơi nước thông qua dây cáp hoặc đầu máy hơi nước, ngày này gần như mọi tàu metro sử dụng năng lượng điện với thiết kế động lực phân tán. Năng lượng cho đoàn tàu, hay còn gọi là sức kéo, thường được cung cấp thông qua một trong hai cách sau: thông qua một đường dây trên cao, có thể treo trên các cột hoặc tháp dọc đường ray, treo trên trần đường hầm hoặc treo từ những kết cấu xung quanh; thông qua một đường ray thứ ba đặt cạnh đường ray chính và được tiếp xúc với chân tiếp xúc của tàu (pickup shoe). Cách thiết kế dẫn điện thông qua thanh ray trên mặt đất được áp dụng chủ yếu là vì chiều cao tĩnh không bị hạn chế ở một số đường hầm khiến việc đặt dây trên cao trở nên khó khăn.
Việc thiết kế dây dẫn trên cao cho phép sử dụng nguồn điện có hiệu điện thế cao hơn. Đường dây trên cao thường được dùng trên các hệ thống metro không phải đi qua nhiều hầm, ví dụ như Tàu điện ngầm Thượng Hải. Một số hệ thống chạy chủ yếu dưới ngầm cũng sử dụng dây dẫn trên cao, ví dụ như Barcelona, Fukuoka, Hồng Kông, Madrid, và Thạch Gia Trang. Cả hai phương thức trên thường sẽ dùng hai thanh ray chạy tàu làm dây dẫn về (cực âm). Một số hệ thống trang bị thanh ray thứ tư riêng cho mục đích này. Đây là những tuyến sử dụng thiết kế cấp điện từ cả đường dây trên cao và thanh ray, cho phép đoàn tàu có thể chuyển đổi giữa hai hình thức, ví dụ như Tuyến Xanh lam tại Boston.
Hầu hết hệ thống metro sử dụng điện một chiều nhưng một số nơi ở Ấn Độ, trong đó có Delhi, sử dụng điện xoay chiều 25 kV 50 Hz cung cấp qua dây dẫn trên cao.
Hầm
sửaCác đường hầm ngầm giúp tách rời giao thông tàu khỏi mặt đất, tránh được tình trạng chậm trễ do tắc nghẽn giao thông và dành nhiều diện tích đất hơn cho những công trình khác. Ở những nơi có giá đất cao và mật độ sử dụng đất dày đặc, xây dựng hầm ngầm có thể là cách tiếp cận khả thi duy nhất cho giao thông công cộng đại chúng. Các đường hầm theo phương pháp đào-và-lấp được xây dựng bằng cách đào hở trên những tuyến phố có sẵn, sau đó lấp đất để tái lập hiện trạng cũ. Máy đào hầm cũng có thể được sử dụng để khoan đào các đường hầm nằm sâu hơn dưới nền đá cứng.[33]
Quá trình xây dựng tuyến metro ngầm là một dự án tốn kém và thường diễn ra trong nhiều năm. Có một số phương pháp khác nhau cho việc xây dựng các tuyến metro đi ngầm.
Một phương pháp xây dựng phổ biến là đào-và-lấp (cut-and-cover): công việc đào đất được tiến hành trên các đường phố và một cấu trúc hầm đủ mạnh để đỡ phần đường bên trên sẽ được xây dựng dưới rãnh đất vừa đào; đường hầm này sau đó sẽ được lấp lại để tái lập mặt đường như trước. Phương pháp này thường yêu cầu di dời các công trình hạ tầng kỹ thuật ngầm được chôn gần mặt đất – cụ thể là các đường dây điện lực, viễn thông, đường ống nước, khí đốt và cống nước thải. Quá trình này cần được thực hiện một cách cẩn trọng để tránh gây ra những sự cố về sau; theo như các tài liệu từ Hội Địa lý Quốc gia Hoa Kỳ, một trong những nguyên nhân gây ra các vụ nổ tại Guadalajara vào tháng 4 năm 1992 khiến hàng trăm người thiệt mạng là do một đường ống nước bị đặt sai vị trí. Cấu trúc hầm thường được làm bằng bê tông, có thể được thiết kế với những kết cấu cột từ thép. Trong những hệ thống metro ban đầu, gạch nung và gang đã được sử dụng. Quá trình xây dựng theo phương pháp này có thể diễn ra trong thời gian dài tới mức các dự án sẽ thường phải xây dựng nền đường tạm nằm phía trên nóc công trường đào hầm, để tránh tình trạng đóng cửa lâu dài những tuyến đường chính.
Một phương pháp xây dựng đường hầm khác là khoan hầm. Với phương pháp này, quá trình xây dựng bắt đầu bằng việc đào một giếng thẳng đứng, nơi mà từ đó đường hầm sẽ được đào theo chiều ngang, thường là bằng một khiên đào hầm, nhờ đó tránh gây xáo trộn tới đường phố, tòa nhà và công trình hạ tầng sẵn có. Tuy nhiên việc áp dụng phương pháp này có khả năng sẽ gặp phải những vấn đề về nguồn nước ngầm, đồng thời quá trình khoan hầm qua lớp nền đá cứng tự nhiên có thể đòi hỏi phải thực hiện nổ mìn để phá đá. Thành phố đầu tiên áp dụng rộng rãi việc khoan hầm sâu là London, nơi có lớp trầm tích đất sét dày giúp tránh được cả hai vấn đề trên. Không gian hạn chế trong đường hầm cũng giới hạn loại máy móc có thể sử dụng, nhưng nay cũng đã xuất hiện các loại máy đào hầm chuyên dụng có thể vượt qua vấn đề này.
Điểm bất lợi của phương pháp này là chi phí đào hầm cao hơn nhiều so với xây dựng đường hầm theo kiểu đào-và-lấp hay xây dựng các tuyến chạy trên mặt đất hoặc trên cao. Những loại máy đào hầm ban đầu không thể xây dựng các đường hầm đủ lớn để chứa trang thiết bị đường sắt thông thường, đòi hỏi việc sử dụng các đoàn tàu đặc biệt có hình dáng thấp và tròn, ví dụ như tại hầu hết hệ thống Tàu điện ngầm London. Tại đây, hầu hết các tuyến cũng không thể lắp đặt điều hòa không khí do khoảng không gian trống giữa tàu và thành hầm là quá nhỏ. Các tuyến tàu khác được xây dựng bằng phương pháp đào-và-lấp đều đã được trang bị tàu có điều hòa không khí.
Hệ thống metro sâu nhất thế giới được xây dựng tại Sankt-Peterburg của Nga, nơi có những vùng đầm lầy cỏ với lớp đất ổn định bắt đầu từ độ sâu hơn 50 mét (160 ft). Ở phía trên độ sâu này chủ yếu là lớp cát rải rác ngập nước. Do vậy, chỉ có 3 trong số gần 60 nhà ga là được xây gần mặt đất và 3 nhà ga khác được xây trên mặt đất. Một số nhà ga và đường hầm nằm sâu tới 100–120 mét (330–390 ft) so với mặt đất. Thông thường, khoảng cách thẳng đứng tính từ mặt đất tới đường ray được sử dụng để thể hiện độ sâu. Những nhà ga nằm trong hàng sâu nhất thế giới bao gồm:
- Ga Hồng Nham Thôn tại Trùng Khánh, Trung Quốc (116 mét (381 ft), mở cửa năm 2022)
- Ga Arsenalna tại Kyiv, Ukraina (105,5 mét (346 ft), mở cửa năm 1960, được xây dựng bên dưới một quả đồi)
- Ga Admiralteyskaya tại Sankt-Peterburg, Nga (102 mét (335 ft), mở cửa năm 2011)
- Ga Sofia tại Stockholm, Thụy Điển (khoảng 100m (328 ft), dự kiến mở cửa vào năm 2030)
- Ga Hồng Thổ Địa tại Trùng Khánh, Trung Quốc (94 mét (308 ft), mở cửa năm 2016)
- Ga Lý Ngư Trì tại Trùng Khánh, Trung Quốc (76 mét (249 ft), mở cửa năm 2017)
- Ga Công viên Chiến thắng tại Moskva (~80 mét (260 ft), mở cửa năm 2005, được xây dựng bên dưới một quả đồi)
- Ga Puhŭng tại Bình Nhưỡng, CHDCND Triều Tiên (có thể dùng làm hầm trú ẩn hạt nhân)
- Ga Đường sắt nhẹ MAX Washington Park tại Portland, Oregon, Hoa Kỳ (được xây dựng bên dưới một quả đồi), 260 feet (80 m)
Một lợi thế của việc xây dựng hầm ngầm sâu là chúng có thể được thiết kế theo kiểu lòng chảo trũng xuống ở khoảng giữa các nhà ga, giúp tránh được việc phải đào hầm gần mặt đất gây phát sinh thêm nhiều chi phí. Kỹ thuật này tận dụng trọng lực để hỗ trợ đoàn tàu tăng tốc khi rời ga và giảm tốc khi vào ga tiếp theo. Nó đã được áp dụng sớm nhất từ năm 1890 trên tuyến City and South London Railway và kể từ đó tiếp tục được triển khai tại nhiều nơi, ví dụ như Montreal hay Nuremberg.
Tuyến Tây Cảng Đảo, một dự án mở rộng của Tuyến MTR Cảng Đảo tại khu vực phía tây Đảo Hồng Kông được khánh thành vào năm 2015, có hai nhà ga (Tây Dinh Bàn và Đại học Hồng Kông) được thiết kế nằm ở độ sâu hơn 100 mét (330 ft) so với mặt đất, với mục đích phục vụ hành khách tại Khu Bán Sơn (Mid-Levels). Các nhà ga này có nhiều lối ra vào được trang bị thang máy tốc độ cao thay vì thang cuốn. Kiểu thiết kế này đã xuất hiện ở nhiều nhà ga Tàu điện ngầm London cũng như các nhà ga tại những nước thuộc Liên Xô cũ.
Đường sắt trên cao
sửaĐường sắt trên cao là một giải pháp đơn giản và tiết kiệm hơn để xây dựng phần đường riêng mà không cần phải đào hầm hay tạo các rào chắn gây tốn kém. Ngoài việc thiết kế đi trên mặt đất, đường sắt trên cao cũng có thể là giải pháp thay thế khả thi duy nhất do mực nước ngầm nằm quá gần mặt đất khiến đường sắt ngầm trở nên đắt đỏ, thậm chí là không thể xây dựng (ví dụ như tại Miami). Đường sắt trên cao từng phổ biến vào khoảng đầu thế kỷ 20, nhưng sau đó không còn được ưa chuộng. Chúng bắt đầu có xu hướng quay trở lại vào khoảng một phần tư cuối cùng của thế kỷ – thường được triển khai kết hợp với các hệ thống không người lái, ví dụ như SkyTrain của Vancouver, Docklands Light Railway của London,[75] Miami Metrorail, Bangkok Skytrain,[76] và Skyline Honolulu.[77]
Nhà ga
sửaCác nhà ga metro hoạt động như những trung tâm cho phép hành khách lên và xuống các chuyến tàu. Chúng cũng là những điểm kiểm soát thanh toán và là nơi hành khách chuyển đổi giữa các loại hình vận chuyển, ví dụ như sang xe buýt hoặc sang những chuyến tàu khác. Hành khách tiếp cận tàu thông qua ke ga cạnh hoặc ke ga đảo.[78] Các nhà ga ngầm, đặc biệt là các ga nằm sâu dưới lòng đất, làm tăng tổng thời gian di chuyển của hành khách: việc hành khách phải di chuyển lâu bằng thang cuốn để tới được sân ga khiến các nhà ga có thể trở thành những điểm nghẽn nếu chúng không được thiết kế hợp lý. Một số nhà ga ngầm hoặc trên cao được tích hợp vào những mạng lưới không gian đi bộ ngầm hoặc trên cao, kết nối với các tòa nhà thương mại xung quanh.[79] Ở khu vực ngoại ô, nhà ga có thể được kết nối với một bãi đỗ xe theo mô hình "park and ride".[80]
Để giúp các đoàn tàu có thể được tiếp cận dễ dàng, ke ga được xây dựng cao giúp hành khách có thể lên tàu mà không cần sử dụng bậc thang hay bệ. Nếu nhà ga được thiết kế tuân theo những tiêu chuẩn khả năng tiếp cận, điều này cũng cho phép người khuyết tật hay những người mang hành lý có bánh xe dễ dàng lên xuống tàu;[81] tuy nhiên trong trường hợp đường ray được thiết kế cong, một khoảng hở giữa tàu và ke ga có thể xuất hiện. Một số ga sử dụng cửa chắn sân ga nhằm tăng độ an toàn, tránh tình trạng hành khách rơi ngã xuống đường ray, cũng như làm giảm chi phí thông gió.
Tại Liên Xô cũ, một số nước Đông Âu và những hệ thống metro mới khác, các nhà ga được xây dựng với nhiều chi tiết trang trí lộng lẫy, ví dụ như tường cẩm thạch, sàn granite bóng hay tranh khảm—với mục đích đưa các tác phẩm nghệ thuật tới công chúng ngay trong cuộc sống thường ngày của họ, ngoài những nơi như triển lãm hay bảo tàng ra. Tường của các nhà ga tàu điện ngầm Moskva được ốp đá với nhiều loại hóa thạch động vật, từ san hô cho tới cúc đá và ốc anh vũ. Những hệ thống metro tại Moskva, Sankt-Peterburg, Tashkent và Kyiv được nhiều người coi là đẹp nhất thế giới.[82] Một vài thành phố khác như London,[83] Stockholm, Montreal, Lisboa, Napoli và Los Angeles cũng đã và đang áp dụng cách làm này, với nhiều loại hình đa dạng từ những họa tiết trang trí trên đá ốp tường, cho tới những tác phẩm nghệ thuật lớn và sặc sỡ được tích hợp vào kiến trúc của nhà ga, hay các hoạt động trưng bày cổ vật được khai quật trong quá trình xây dựng ga.[84] Các nhà ga có thể thu hút thêm hành khách cũng như lợi nhuận bằng cách đầu tư xây dựng những công trình kiến trúc lớn, những tác phẩm nghệ thuật, cải thiện sự sạch sẽ, khả năng tiếp cận, chiếu sáng và cảm giác an toàn cho hành khách.[85]
Nhân sự vận hành và tự động hóa
sửaTrong những năm đầu tiên của đường sắt ngầm, mỗi tàu được bố trí ít nhất 2 nhân viên vận hành: một hoặc nhiều tiếp viên (còn được gọi là "trưởng tàu") hoạt động hệ thống cửa hoặc cổng lên xuống, cùng với một người lái tàu (hay còn gọi là "kỹ sư"). Việc giới thiệu cửa tự động vào khoảng năm 1920 đã giúp giảm số lượng nhân sự, và các đoàn tàu tại nhiều thành phố nay chỉ cần được vận hành bởi một người duy nhất. Ở những nơi mà người lái tàu không thể quan sát hết được toàn bộ sườn tàu để kiểm tra an toàn trước khi đóng cửa tàu, gương hoặc màn hình camera giám sát thường được trang bị để hỗ trợ.
Một hệ thống thay thế người lái đã xuất hiện từ thập niên 1960, với sự phát triển của các công nghệ điện toán hỗ trợ cho quá trình điều khiển tàu tự động, và sau này là vận hành tàu tự động (ATO). ATO có thể tự động khởi động tàu, tăng tốc tới tốc độ đã đặt sẵn, và dừng tàu ở vị trí chính xác trên sân ga ở ga tiếp theo, dựa vào những thông tin mà người lái thường thu thập từ hệ thống tín hiệu dọc đường ray hoặc hệ thống báo hiệu trong buồng lái. Tuyến metro đầu tiên sử dụng công nghệ này trên toàn tuyến là Tuyến Victoria tại London, mở cửa vào năm 1968.
Khi hoạt động bình thường, nhân viên vận hành tàu sẽ ngồi ở vị trí ghế lái phía trước, nhưng chỉ chịu trách nhiệm đóng cửa tại mỗi ga. Bằng cách nhấn đồng thời hai nút "bắt đầu", tàu sẽ tự động di chuyển tới ga tiếp theo. Kiểu "vận hành tàu bán tự động" (STO) này, về mặt kỹ thuật còn gọi là "Cấp độ Tự động hóa (GoA) 2", đã trở nên rất phổ biến, đặc biệt là tại các tuyến mới xây dựng như mạng lưới BART của Khu vực Vịnh San Francisco.
Một biến thể của ATO, "vận hành tàu không người lái" (DTO) hay còn được phân loại kỹ thuật là "GoA 3", xuất hiện trên một số hệ thống như Docklands Light Railway của London, khai trương vào năm 1987. Tại đây, một "nhân viên dịch vụ hành khách" sẽ ở cùng khoang với hành khách thay vì ngồi ở ghế lái phía trên, nhưng vẫn đảm nhiệm các trọng trách giống như người lái trong hệ thống GoA 2. Công nghệ này có thể cho phép tàu vận hành hoàn toàn tự động mà không có tổ lái tàu, giống như hầu hết các loại thang máy. Khi chi phí tự động hóa bắt đầu giảm, đây trở thành lựa chọn thu hút về mặt tài chính cho các nhà vận hành.
Cùng thời điểm này, một số ý kiến phản đối cho rằng trong trường hợp khẩn cấp, một thành viên tổ lái có mặt trên tàu có thể ngăn chặn tình huống khẩn cấp đó xảy ra ngay từ đầu, di chuyển đoàn tàu lỗi tới ga tiếp theo, hỗ trợ công tác sơ tán nếu cần, hoặc gọi các dịch vụ khẩn cấp cần thiết và giúp họ định hướng tới vị trí xảy ra sự việc. Tại một số nơi, những lý do trên cũng được sử dụng để bố trí tổ vận hành tàu hai người thay vì chỉ có một; một người lái ở phía trước tàu, người còn lại thao tác cửa ở một vị trí phía sau, thuận tiện hơn cho việc hỗ trợ hành khách. Tuyến Scarborough RT tại Toronto từng hoạt động trước đây buộc phải bố trí một người lái đơn thuần do sự phản đối từ hiệp hội công đoàn.
Các đoàn tàu hoàn toàn không có nhân viên vận hành, hay "vận hành tàu không có giám sát" (UTO), phân loại kỹ thuật "GoA 4", được chấp nhận nhiều hơn trên những hệ thống mới không có nhân sự sẵn có để luân chuyển, và đặc biệt là trên các tuyến metro nhẹ. Một trong những hệ thống đầu tiên như vậy là VAL (véhicule automatique léger hay "phương tiện nhẹ tự động"), được sử dụng lần đầu vào năm 1983 trên mạng lưới Lille Metro tại Pháp. Các tuyến VAL tiếp theo đã được xây dựng tại một số thành phố khác như Toulouse, Pháp, và Turin, Ý. Một hệ thống khác cũng sử dụng đoàn tàu không người vận hành là Innovia Metro của Bombardier, van đầu được phát triển bởi Urban Transportation Development Corporation với tên gọi Intermediate Capacity Transit System (ICTS). Hệ thống này về sau được áp dụng tại mạng lưới SkyTrain ở Vancouver và Tuyến Kelana Jaya ở Kuala Lumpur, cả hai đều không bố trí tổ lái tàu.
Một trở ngại khác của quá trình chuyển đổi các tuyến sẵn có sang vận hành hoàn toàn tự động là quá trình này có thể đòi hỏi phải ngưng hoạt động dịch vụ. Ngoài ra, ở những nơi có nhiều tuyến sử dụng chung cơ sở vật chất, việc chạy chung cả tàu tự động và tàu có người lái trong một khoảng thời gian chuyển đổi có thể là cần thiết. Hệ thống U-Bahn Nuremberg đã chuyển đổi tuyến U2 sẵn có sang vận hành tự động hoàn toàn (GoA4) vào đầu năm 2010 mà không phải gián đoạn dịch vụ một ngày nào. Trước đó tuyến đã chạy hỗn hợp với tuyến U3 hoàn toàn không có người lái mới mở cửa từ năm 2008. Nuremberg U-Bahn là hệ thống đầu tiên trên thế giới thực hiện quá trình chuyển đổi này thông qua việc vận hành hỗn hợp và không bị gián đoạn dịch vụ. Mặc dù điều này cho thấy những rào cản kỹ thuật trên là có thể vượt qua được, thực chất dự án này đã bị trì hoãn nghiêm trọng, không đạt được mục tiêu vận hành kịp thời điểm diễn ra vòng chung kết FIFA World Cup 2006, đồng thời những hy vọng xuất khẩu hệ thống tự động hóa tại Nuremberg ra quốc tế cũng không trở thành hiện thực.
Các hệ thống sử dụng tàu tự động cũng thường lắp đặt cửa chắn sân ga kín hoàn toàn hoặc cổng chắn sân ga tự động dạng lan can để đảm bảo an toàn cho hành khách, nhưng điều này không diễn ra ở mọi nơi, ví dụ như tại Nuremberg chỉ sử dụng cảm biến hồng ngoại để phát hiện chướng ngại vật trên đường ray. Ngược lại, một số tuyến sử dụng hệ thống vận hành có người lái vẫn lắp đặt cửa chắn, nổi bật trong số đó là đoạn mở rộng của tuyến Jubilee tại London. Nơi đầu tiên lắp đặt cửa chắn sân ga trên hệ thống đã vận hành sẵn có là MTR của Hồng Kông, theo sau đó là Singapore MRT.
Với các đoàn tàu lớn hơn, Métro Paris bố trí người lái trên hầu hết các tuyến nhưng chạy tàu tự động trên tuyến mới nhất, Tuyến 14, mở cửa vào năm 1998. Tuyến 1 được xây dựng từ lâu về sau đã được chuyển đổi sang vận hành không giám sát vào năm 2012, sau đó là Tuyến 4 vào năm 2023. Tuyến MRT Đông Bắc tại Singapore, mở cửa vào năm 2003, là tuyến đường sắt đô thị ngầm tự động hoàn toàn đầu tiên trên thế giới. Tuyến Disneyland Resort tại Hồng Kông cũng được tự động hóa, cùng với các đoàn tàu trên Tuyến Nam Cảng Đảo.
Xem thêm
sửaTham khảo
sửaChú thích
sửa- ^ “urbanrail.net > metro - subway - light rail”. urbanrail.net.
- ^ “Mass transit - Urban Mobility, Efficiency, Environment”. Britannica (bằng tiếng Anh). 4 tháng 9 năm 2024. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2024.
- ^ “Fact Book Glossary”. American Public Transportation Association. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2024.
- ^ “Rapid transit”. Merriam-Webster. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2013.
- ^ a b UITP (2011). “Recommended basic reference for developing a minimum set of standards for voluntary use in the field of urban rail, according to mandate M/486” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 22 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2014.
- ^ a b c “Glossary of Transit Terminology” (PDF). American Public Transportation Association. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 12 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2013.
- ^ a b Fouracre, Phil; Dunkerley, Christian; Gardner, Geoff (2003). “Mass rapid transit systems for cities in the developing world”. Transport Reviews. Taylor & Francis Online. 23 (3): 299–310. doi:10.1080/0144164032000083095. S2CID 154931412. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2023.
- ^ a b “Rapid Transit”. Encyclopædia Britannica. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2014.
- ^ “Chicago”. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2015.
- ^ Transport for London (1981). London Underground: History. Capital Transport. ISBN 978-0-904711-30-1. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2013.
- ^ “Luoyang and Ji'nan open metro lines”. International Railway Journal (bằng tiếng Anh). 29 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2021.
- ^ “China's Metro Boom Continues to Drive Rapid Transit Growth – Institute for Transportation and Development Policy”. Institute for Transportation and Development Policy (bằng tiếng Anh). 30 tháng 7 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2018.
- ^ “Metro Data”. metro-data.info. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2018.
- ^ “Rapid Transit Trends Show Record Growth in 2016, with Huge Increases in China, Brazil – Institute for Transportation and Development Policy”. Institute for Transportation and Development Policy (bằng tiếng Anh). 17 tháng 2 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2018.
- ^ “Shanghai now the world's longest metro”. Railway Gazette International. 4 tháng 5 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2010.
- ^ Smith, Stephen J. (6 tháng 1 năm 2014). “New Starts: Shanghai Metro World's Longest, Panama Canal Drama, Japan's Maglev”. Next City. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2014.
- ^ “Facts – Subway and Bus Ridership”. Metropolitan Transportation Authority (MTA). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2014.
- ^ Fjellstrom&Wright, 2002: p. 2
- ^ Executive ed.: Joseph P. Pickert... (2000). The American Heritage Dictionary of the English Language . Houghton Mifflin Company. ISBN 978-0-618-08230-8.
- ^ “Definition of "Underground"”. Chambers Reference Online. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2006.
- ^ a b White, 2002: 63
- ^ a b Ovenden, 2007: 93
- ^ Ovenden, 2007: 16
- ^ “DC Metro System Fast Facts”. CNN. 3 tháng 11 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2015.
- ^ “Transportation Basics: How to Use BART”. San Francisco Travel (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2022.
- ^ “Tarif Belum Diketok, Warga Masih Bisa Nikmati MRT Cuma-cuma Sampai Akhir Maret”. Merdeka.com (bằng tiếng Indonesia). Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2017.
- ^ “About Us – MRT3 Stations”. Metro Rail Transit. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2014.
- ^ “BEM Investor presentation” (PDF).
- ^ 桃園都會區大眾捷運系統 (bằng tiếng Trung). Department of Rapid Transit Systems. 1 tháng 7 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2010.
- ^ KMRT History – Kaohsiung City Mass Rapid Transit Bureau official site (Traditional Chinese) Lưu trữ 2014-08-19 tại Wayback Machine
- ^ Seah C. M. (1981). Southeast Asian Affairs. Singapore: Institute of Southeast Asian Studies. tr. 293.
- ^ Pillay, Suzanna (16 tháng 7 năm 2017). “MRT line a game-changer | New Straits Times”. NST Online (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2024.
- ^ a b c Ovenden, 2007: 7
- ^ Emmerson, Andrew (2010). The London Underground. London: Shire Publications Ltd. p. 13. ISBN 978-0-74780-790-2.
- ^ Bolger, Paul (22 tháng 11 năm 2004). “Site Name: Liverpool Overhead Railway & Dingle Station”. Subterranea Britannica. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2007.
- ^ “Subway”. Encyclopædia Britannica online. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 12 năm 2006. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2006.
- ^ Pulling, Niel (22 tháng 5 năm 2008). “Light Rail – the Solution to Inner-City Chaos?”. Railway Technology. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2008.
- ^ “Australia's first metro system opened in Sydney”. Urban Transport Magazine (bằng tiếng Anh). 29 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2021.
- ^ “Rapid Transit Trends Show Record Growth in 2016, with Huge Increases in China, Brazil – Institute for Transportation and Development Policy”. Institute for Transportation and Development Policy (bằng tiếng Anh). 17 tháng 2 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2018.
- ^ “In response to growth, Chinese cities choose metros”. The Transport Politic (bằng tiếng Anh). 17 tháng 1 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2018.
- ^ “Effetto M4: la metro di Milano entra nella top europea” (bằng tiếng Ý). 11 tháng 10 năm 2024. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2024.
- ^ Cervero, 1998: 13
- ^ “Helsinki Metro – Discover Helsinki”. 19 tháng 3 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2020.
- ^ “Today in Transportation History – 1982: The Northernmost Public Transportation System”. 2 tháng 8 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2020.
- ^ “8 charming pictures from Helsinki's metro”. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2020.
- ^ Ovenden, 2007: 84
- ^ Ovenden, 2007: 32–35
- ^ Ovenden, 2007: 95
- ^ Ovenden, 2007: 28–31
- ^ Ovenden, 2007: 36–39
- ^ “MTR > A Service of World-class Quality”. www.mtr.com.hk (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2021.
- ^ Runnacles, Timothy V. (2020). Dimitriou, Harry T.; Cook, Alison H.S (biên tập). Land-use/Transport Planning in Hong Kong: A Review of Principles and Practices. Routledge. tr. 107. ISBN 978-1138361959.
- ^ White, Peter (2002). Public Transport: Its Planning, Management, and Operation. Spon Press. tr. 65–66.
- ^ a b Walker, Jarret (2012). Human transit : how clearer thinking about public transit can enrich our communities and our lives. Washington: Island Press. ISBN 978-1-59726-972-8.
- ^ Roth, C; Kang, SM; Batty, M; Barthelemy, M (16 tháng 5 năm 2012). “A long-time limit for world subway networks”. Journal of the Royal Society Interface. 9 (75): 2540–2550. doi:10.1098/rsif.2012.0259. PMC 3427522. PMID 22593096.
- ^ Ovenden, 2007: 107
- ^ a b Ovenden, 2007: 9
- ^ Ström, 1998: 58
- ^ Office of Hazardous Materials Safety. “A Comparison of Risk: Accidental Deaths – United States – 1999–2003”. US Department of Transportation. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2007.
- ^ “Office of Rail Regulation”. UK Health & Safety Executive. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2007.
- ^ “Why we need to talk about sexual assault on public transport”. 30 tháng 4 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2018.
- ^ “Sexual Harassment on the New York Subway Has Increased More Than 50% This Year”. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2018.
- ^ Needle et al., 1997: 10–13
- ^ “El auto de procesamiento por el 11-M”. El Mundo (bằng tiếng Tây Ban Nha). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2008.
- ^ “Supercharging Singapore”. The Straits Times. 10 tháng 10 năm 2015.
- ^ White, 2002: 64–65
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênkjenstad46
- ^ White, 2002: 64
- ^ Railway Technology. “Toulouse Metro, France”. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 9 năm 2008. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2008.
- ^ Sato, Yoshihiko; Matsumoto, Akira & Knothe, Klaus (2002). “Review on rail corrugation studies”. Wear. 253 (1–2): 130–139. doi:10.1016/S0043-1648(02)00092-3.
- ^ “Hudson and Manhattan Railroad”. Electric Railroads. Electric Railroaders Assn., N.Y., N.Y. (27). tháng 8 năm 1959. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 3 năm 2023 – qua Hoboken Historical Museum.
- ^ Tsuchiya, Takeyuki (7 tháng 7 năm 2022). “昔の地下鉄は暑かった?車両「冷房化」の意外な歴史” [Was it hot in the old subway? Surprising history of vehicle "cooling"]. Mainichi Shimbun (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2022.
- ^ “Métro et autobus: chaud débat sur la climatisation” (bằng tiếng Pháp). Ruefrontenac.com. 27 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2011.
- ^ Société de transport de Montréal (2002). The Montreal Métro, a source of pride (PDF). Société de transport de Montréal. tr. 6. ISBN 978-2-921969-08-6. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 30 tháng 9 năm 2007.
- ^ “Docklands Light Railway – About DLR”. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 10 năm 2006. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2006.
- ^ “Bangkok Mass Transit System Company Limited – BTS SkyTrain”. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 11 năm 2006. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2006.
- ^ “Skyline Rail Operations”. City and County of Honolulu. 9 tháng 1 năm 2024. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2024.
- ^ Uslan et al., 1990: 71
- ^ Cervero, 1998: 8
- ^ Cervero, 1998: 226
- ^ Boorse, Jack W. (1999). “Dual-Mode Traction Power Distribution for Light Rail Transit: A Design Option”. Transportation Research Record. 1677: 67–72. doi:10.3141/1677-09. S2CID 110192749.
- ^ “Metro Arts and Architecture”. Metro Bits. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 12 năm 2006. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2006.
- ^ “Art on the Underground”.
- ^ Storstockholms Lokaltrafik. “Konståkning i världens längsta konstutställning” (bằng tiếng Thụy Điển). Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2008.
- ^ “10 Ways to Enhance Your Community: Unleash the Power of Public Transportation” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 17 tháng 10 năm 2006. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2006.
Nguồn
sửa- Banister, David & Berechman, Joseph (2000). Transport Investment and Economic Development. Routledge. ISBN 978-0-419-25590-1.
- Bobrick, Benson (1981). Labyrinths of Iron: a[n] History of the World's Subways. New York: Newsweek Books. ISBN 0-88225-299-2.
- Cervero, Robert (1998). The Transit Metropolis. Island Press. ISBN 978-1-55963-591-2.
- European Conference of Ministers of Transport (2003). Safe & Sustainable Transport. Paris: OECD Publishing. ISBN 978-92-821-1303-5.
- Fjellstrom, K.; Wright, L. (2002). “Mass Transit Options” (PDF). Sustainable Transport: A Sourcebook for Policy-Makers in Developing Cities. Deutsche Gesellschaft für Technische Zusammenarbeit. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 7 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2009.
- Kjenstad, Rune (1994). På skinner i Bymarka (bằng tiếng Na Uy). Oslo: Baneforlaget. ISBN 978-82-91448-01-5.
- Ovenden, Mark (2007). Transit Maps of the World. London: Penguin. ISBN 978-0-14-311265-5.
- Needle, Jerome A.; Transportation Security Board & Cobb, Renée M. (1997). Improving Transit Security. Transportation Security Board. ISBN 978-0-309-06013-4.
- Ström, Marianne (1998). Metro Art. ACR Edition. ISBN 978-2-86770-068-2.
- White, Peter (2002). Public Transport: Its Planning, Management, and Operation. Taylor & Francis. ISBN 978-0-415-25772-5.
- Uslan, Mark; American Foundation for the Blind; Peck, Alec; Wiener, William & Stern, Arlene (1990). Access to Mass Transit for Blind and Visually Impaired Travelers. American Foundation for the Blind. ISBN 978-0-89128-166-5.
- Joseph P. Pickert; và đồng nghiệp biên tập (2000). The American Heritage Dictionary of the English Language (ấn bản thứ 4). Houghton Mifflin Company. ISBN 978-0-618-08230-8.
Liên kết ngoài
sửa- Cơ sở dữ liệu
- Metro-Data.info (Lưu trữ 2018-09-29 tại Wayback Machine) – cơ sở dữ liệu các hệ thống metro trên thế giới