Salvador Dalí
Salvador Felipe Jacinto Dalí Domènech hay Salvador Felip Jacint Dalí Domènech (11 tháng 5 năm 1904 – 23 tháng 1 năm 1989), thường được biết đến bằng cái tên Salvador Dalí, là nghệ sĩ sinh ra tại Figueres, xứ Catalonia, Tây Ban Nha. Ông được coi như một trong những họa sĩ có ảnh hưởng lớn nhất trong thế kỷ 20 với phong cách siêu thực.
Salvador Dalí | |
---|---|
Thông tin cá nhân | |
Sinh | |
Tên khai sinh | Salvador Domingo Felipe Jacinto Dalí i Domènech |
Ngày sinh | 11 tháng 5, 1904 |
Nơi sinh | Figueres, Catalonia, Tây Ban Nha |
Mất | |
Ngày mất | 23 tháng 1, 1989 | (84 tuổi)
Nơi mất | Figueres, Catalonia, Tây Ban Nha |
Nguyên nhân | ngừng tim |
An nghỉ | Nhà hát và Bảo tàng Dalí |
Nơi cư trú | |
Giới tính | nam |
Quốc tịch | Tây Ban Nha |
Gia đình | |
Bố | Salvador Dalí i Cusí |
Mẹ | Felipa Domènech i Ferrés |
Anh chị em | Anna Maria Dalí |
Hôn nhân | Gala Dalí |
Người tình | Amanda Lear |
Học sinh | International Chrysis |
Lĩnh vực | Hội họa, Nhiếp ảnh, Điêu khắc, Văn chương |
Sự nghiệp hội họa | |
Đào tạo | Trường nghệ thuật San Fernando, Madrid |
Trào lưu | Lập thể, Dada, Siêu thực |
Tác phẩm | The Persistence of Memory (1931) Face of Mae West Which May Be Used as an Apartment, (1935) Soft Construction with Boiled Beans (Premonition of Civil War) (1936) Swans Reflecting Elephants (1937) Ballerina in a Death's Head (1939) The Temptation of St. Anthony (1946) Galatea of the Spheres (1952) Young Virgin Auto-Sodomized by the Horns of Her Own Chastity (1954) |
Ảnh hưởng bởi | |
Chữ ký | |
http://www.salvador-dali.org/ | |
Salvador Dalí trên Facebook và IMDb | |
Dalí là một họa sĩ lành nghề, nổi tiếng với những hình ảnh ấn tượng và kỳ lạ trong các tác phẩm siêu thực của mình. Kỹ năng hội họa của ông thường được cho là do ảnh hưởng của các bậc thầy thời kỳ Phục hưng.[1][2] Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, The Persistence of Memory, được hoàn thành vào tháng 8 năm 1931.
Dalí giải thích "tình yêu của tôi với tất cả mọi thứ có ánh vàng, sự cực đoan, niềm đam mê của tôi với sự sang trọng và quần áo phương Đông"[3] đến từ một "dòng dõi Ả Rập", tuyên bố rằng tổ tiên của ông là hậu duệ của người Moor.
Ông rất giàu trí tưởng tượng, và cũng rất thích đắm mình trong các hành vi bất thường và kỳ vĩ. Sự lập dị và hoạt động công cộng của ông nhằm gây chú ý đôi khi còn thu hút công chúng nhiều hơn so với các tác phẩm nghệ thuật của ông. Điều này làm những người yêu thích các tác phẩm của ông khó chịu, và làm cho các nhà phê bình bực bội.[4][5]
Bên cạnh hội họa, ông còn được biết đến như một nhà điêu khắc, nhiếp ảnh, sản xuất phim... Ông đã đoạt giải Oscar dành cho phim hoạt hình ngắn với bộ phim hợp tác cùng Walt Disney mang tên Destino. Ngoài ra, ông còn được Hoàng gia Tây Ban Nha trao tặng huân chương Isabelle.
Tiểu sử
sửaThời niên thiếu
sửaSalvador Domingo Felipe Jacinto Dalí i Domènech sinh ngày 11 tháng 5, 1904, lúc 8:45 am GMT[6] ở thị trấn Figueres, vùng Empordà, gần biên giới với Pháp ở Catalonia, Tây Ban Nha.[7] Anh của Dalí cũng mang tên Salvador (sinh ngày 12 tháng 10 năm 1901), đã chết do viêm dạ dày chín tháng trước đó ngày 01 tháng 8 năm 1903. Cha ông, Salvador Dalí i Cusí, là một luật sư và công chứng viên thuộc tầng lớp trung lưu,[8] theo đánh giá của vợ ông là bà Felipa Domenech Ferrés thì ông là người có phương pháp kỷ luật rất nghiêm ngặt. Bà đã làm giảm đi sự nghiêm khắc của chồng đồng thời động viên những nỗ lực của con trai.[9] Khi lên 5, Dalí được đưa đến mộ của anh trai mình và được cha mẹ bảo rằng ông chính là anh trai của mình tái sinh,[10] và ông đã tin vào ý niệm này.[11] Dalí nói rằng, "...[chúng tôi] giống nhau như hai giọt nước, nhưng khác nhau về suy nghĩ."[12] "Anh tôi có lẽ là phiên bản đầu của tôi nhưng đã bị ảnh hưởng quá nhiều từ quan điểm tuyệt đối."[12] Các hình ảnh của người anh quá cố cũng đã xuất hiện trong các tác phẩm sau này của ông, như Portrait of My Dead Brother (1963).
Dalí cũng có một em gái nhỏ hơn 3 tuổi là Ana María.[8] Năm 1949, bà đã xuất bản một quyển sách về anh của bà, Dalí As Seen By His Sister.[13]
Dalí vào học trường mỹ thuật. Năm 1916, Dalí đã khám phá thể loại tranh hiện đại trong một chuyến nghỉ hè ở Cadaqués cùng với gia đình của Ramon Pichot, một họa sĩ thường xuyên đến Paris.[8] Năm sau đó, cha của Dalí tổ chức một buổi triển lãm những bức vẽ than của ông tại nhà của họ. Ông có cuộc triển lãm rộng rãi tại Nhà hát thành phố ở Figueres năm 1919.
Tháng 2, 1921, mẹ của Dalí qua đời do ung thư vú lúc Dalí 16 tuổi. Sau này, ông nói về sự qua đời của mẹ mình "là cú đòn lớn nhất mà tôi phải chịu đựng trong đời tôi. Tôi tôn thờ mẹ... Tôi không thể chịu đựng sự mất mát một con người mà tôi đã dựa vào để khỏa lấp những nhược điểm không thể che giấu của tâm hồn tôi."[5][14] Sau khi bà chết, cha ông kết hôn với em gái của vợ ông. Dalí đã không phản đối cuộc hôn nhân này vì ông yêu quý và tôn trọng người dì của mình.[8]
Tại Madrid và Paris
sửaNăm 1922, Dalí chuyển vào Residencia de Estudiantes (khu nội trú) tại Madrid[8] và học tại Real Academia de Bellas Artes de San Fernando. Cao 1,72 m (5 ft. 7¾ in.)[15] Dalí đã thu hút sự chú ý như một người lập dị và kỳ quái. Ông để tóc và tóc mai đều dài, mặc áo, vớ, và quần ống túm theo phong cách của người Anh cuối thế kỷ 19.
Tại Residencia, ông trở thành bạn thân với Pepin Bello, Luis Buñuel và Federico García Lorca. Quan hệ bạn bè của ông với Lorca đã có xu hướng đam mê tình dục mạnh mẽ,[16] nhưng Dalí từ chối tình ý của nhà thơ này.[17]
Tuy nhiên các bức tranh của ông, trong đó ông đã thử nghiệm phong cách Lập thể, mới là những gì ông giành được sự chú ý nhiều nhất từ bạn bè sinh viên của mình. Kiến thức duy nhất của ông về nghệ thuật lập thể đến từ các bài báo tạp chí và một danh sách các tác phẩm do Pichot đưa cho xem, vì không có nghệ sĩ lập thể nào ở Madrid vào thời điểm đó. Vào năm 1924, một Salvador Dalí vẫn chưa được biết đến vẽ minh họa một cuốn sách lần đầu tiên. Đó là một ấn bản của bài thơ Catalan Les bruixes de Llers ("The Witches of Llers") do bạn bè và bạn học của ông, nhà thơ Carles Fages de Climent xuất bản. Dalí cũng thử nghiệm với Dada, và điều này đã ảnh hưởng đến các tác phẩm trong suốt cuộc đời của ông.
Dalí đã bị trục xuất khỏi học viện vào năm 1926, ngay trước khi kỳ thi cuối cùng của ông vì bị cáo buộc đã gây bạo loạn.[5][18] Các kỹ năng vẽ tranh xuất sắc tại thời điểm đó của ông đã được chứng minh bằng tác phẩm Giỏ Bánh mì, vẽ năm 1926.[19] Cùng năm đó, ông đã thực hiện chuyến thăm đầu tiên của mình đến Paris, nơi ông gặp Pablo Picasso, người mà cậu trai trẻ Dalí hằng ngưỡng mộ.[5] Picasso đã nghe các nhận xét tốt về Dalí từ Joan Miró, một người bạn Catalan đã giới thiệu ông với nhiều bạn bè phong cách siêu thực.[5] Trước khi Dalí tập trung phát triển phong cách riêng của mình trong vài năm sau đó, Dalí đã thực hiện một số tác phẩm chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi Picasso và Miró.
Chú thích
sửa- ^ “Phelan, Joseph, ',The Salvador Dalí Show”. Artcyclopedia.com. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2010.
- ^ Dalí, Salvador. (2000) Dalí: 16 Art Stickers, Courier Dover Publications. ISBN 0-486-41074-9.
- ^ Ian Gibson (1997). The Shameful Life of Salvador Dalí. W. W. Norton & Company. Gibson found out that "Dalí" (and its many variants) is an extremely common surname in Arab countries like Maroc, Tunisia, Algérie hoặc Ai Cập. On the other hand, also according to Gibson, Dalí's mother's family, the Domènech of Barcelona, had Jewish roots.
- ^ Saladyga, Stephen Francis. "The Mindset of Salvador Dalí" Lưu trữ 2006-09-06 tại Wayback Machine. lamplighter (Niagara University). Vol. 1 No. 3, Summer 2006. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2006.
- ^ a b c d e Meisler, Stanley (tháng 4 năm 2005). “The Surreal World of Salvador Dalí”. Smithsonian.com. Smithsonian Magazine. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2014.
- ^ Birth certificate and “Dalí Biography”. Dalí Museum. Dalí Museum. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2008.
- ^ Dalí, The Secret Life of Salvador Dalí, 1948, London: Vision Press, p.33
- ^ a b c d e Llongueras, Lluís. (2004) Dalí, Ediciones B – Mexico. ISBN 84-666-1343-9.
- ^ Rojas, Carlos. Salvador Dalí, Or the Art of Spitting on Your Mother's Portrait, Penn State Press (1993). ISBN 0-271-00842-3.
- ^ 17 tháng 6 năm 2004/22707.html Salvador Dalí[liên kết hỏng]. SINA.com. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2006.
- ^ Salvador Dalí biography on astrodatabank.com. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2006.
- ^ a b Dalí, Secret Life, p.2
- ^ “Dalí Biography 1904–1989 – Part Two”. artelino.com. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 10 năm 2006. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2006.
- ^ Dalí, Secret Life, pp.152–153
- ^ As listed in his prison record of 1924, aged 20. However, his hairdresser and biographer, Luis Llongueras, states Dalí was 1,74 m (5 ft 8+1⁄2 in) tall.
- ^ For more in-depth information about the Lorca-Dalí connection see Lorca-Dalí: el amor que no pudo ser and The Shameful Life of Salvador Dalí, both by Ian Gibson.
- ^ Bosquet, Alain, Conversations with Dalí, 1969. p. 19–20. (PDF format) (of García Lorca) 'S.D.:He was homosexual, as everyone knows, and madly in love with me. He tried to screw me twice.... I was extremely annoyed, because I wasn’t homosexual, and I wasn’t interested in giving in. Besides, it hurts. So nothing came of it. But I felt awfully flattered vis-à-vis the prestige. Deep down I felt that he was a great poet and that I owe him a tiny bit of the Divine Dalí's asshole. He eventually bagged a young girl, and she replaced me in the sacrifice. Failing to get me to put my ass at his disposal, he swore that the girl's sacrifice was matched by his own: it was the first time he had ever slept with a woman.'
- ^ Salvador Dalí: Olga's Gallery. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2006.
- ^ “Paintings Gallery No. 5”. Dali-gallery.com. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2010.
Tham khảo
sửa- Linde Sabler. "Dalí". London: Haus Publishing, 2004 (paperback, ISBN 978-1-904341-75-8).
- Salvador Dali Lưu trữ 2013-12-03 tại Wayback Machine interviewed by Mike Wallace on The Mike Wallace Interview ngày 19 tháng 4 năm 1958
- Carré d'Art (Salvador Dali), J-P Thiollet, Anagramme Ed., 2008. ISBN 2-35035-189-6
Liên kết ngoài
sửa- Tư liệu liên quan tới Salvador Dalí tại Wikimedia Commons
- Trang chủ Lưu trữ 2014-06-25 tại Wayback Machine
- Bảo tàng Lưu trữ 2008-11-06 tại Wayback Machine