[go: up one dir, main page]

Bước tới nội dung

SeeYa

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
SeeYa
씨야
Nguyên quánSeoul, Hàn Quốc
Thể loạiK-pop
Năm hoạt động2006–2011 (đã tan rã),2020(Tái hợp trở lại)
Hãng đĩaGM Entertainment (2006)
Mnet Media (2007–2009)
Core Contents Media (2009–2011)
Hợp tác vớiBrown Eyed Girls, Davichi, T-ara, The SeeYa
Cựu thành viênKim Yeonji (2006-2011)
Lee Boram (2006-2011)
Nam Gyuri (2006–2009)
Soomi (2009–2010)

SeeYa (Hangul: 씨야)(viết tắt của See You Always) là một nhóm nhạc nữ Hàn Quốc ban đầu được tạo thành từ các thành viên: Kim Yeonji, Lee Boram, và Nam Gyuri. Năm 2009, Nam Gyuri rời nhóm để theo đuổi sự nghiệp hát đơn, cô được thay thế bởi Lee Soomi cho đến năm 2010. Sau đó nhóm tiếp tục hoạt động với bộ đôi: Kim Yeonji và Lee Boram cho đến khi tan rã năm 2011. Khi ra mắt, họ được coi giống như phiên bản nữ của SG Wannabe.[1]

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Album đầu tay của họ, "The First Mind" được phát hành vào ngày 24 tháng 2 năm 2006.[2] và cho ra mắt đĩa đơn "A Woman's Scent" và "Shoes", bài hát "Crazy Love Song" cho phim The Invisible Man.[3]

Album thứ hai của họ Lovely Sweet Heart, được phát hành vào ngày 25 tháng 5 năm 2007.[4] Album bán được 81.723 bản trong năm 2007, trở thành album bán chạy thứ năm ở Hàn Quốc trong năm đó, theo Hiệp hội Công nghiệp âm nhạc của Hàn Quốc.[5] Đĩa đơn đầu tiên "Love's Greeting",[6] đã giành giải thưởng tại Golden Disk Awards và giải thưởng MKMF Awards năm 2007.[7]

Tháng 5, 2008, SeeYa đã hợp tác cùng Davichi, Black Pearl phát hành một đĩa đơn là "Blue Moon".

Vào tháng 4 năm 2009, SeeYa được quản lý và điều hành bởi Core Contents Media - công ty con của Mnet Media. Sau đó Nam Gyuri đã ngừng tham gia vào các hoạt động của nhóm. Nam Gyuri tuyên bố hợp đồng của cô đã kết thúc và cô ấy đã không còn ràng buộc với công ty hoặc SeeYa. Trên blog của mình, cô ấy ám chỉ người đứng đầu của Core Contents Media là "ma quỷ" và cáo buộc các thành viên khác của nhóm làm cô ấy cảm thấy cô đơn.[8]

Tháng 5, 2009, SeeYa hợp tác cùng DavichiT-ara để phát hành đĩa đơn "Women's Generation/Eternal Love." Tính đến 08 tháng 6 năm 2009, "Women's Generation" đã đứng đầu các bảng xếp hạng nhạc di động trong bốn tuần liên tiếp và đứng thứ 4 trong tải nhạc di động năm 2009.[9]

Ngày 15 tháng 7 năm 2009, Core Contents Media thông báo Nam Gyu Ri sẽ trở lại hoạt động cùng nhóm. Tuy nhiên không lâu sau, Core Contents Media lại thông báo Nam Gyu Ri sẽ chính thức rời nhóm vào ngày 13 tháng 8 năm 2009. Gyu Ri thông báo rằng cô rời nhóm để tập trung vào sự nghiệp diễn xuất của mình và không có ý định tiếp tục làm ca sĩ.[10] Tuy nhiên trong thực tế, Gyu Ri Nam đã tiếp tục ca hát như một nghệ sĩ solo ngay sau khi tìm được quản lý mới.[11][12]. Sau đó, Gyu Ri được thay thế bởi Lee Soomi.[13] Họ cho ra mắt mini-album mới: "Rebloom" vào 28 tháng 10 năm 2009

Sau khi kết thúc chương trình quảng bá cho "Rebloom", SeeYa hợp tác cùng DavichiT-ara phát hành ca khúc "Wonder Woman" vào tháng 7 năm 2010. Trong 4, SeeYa phát hành ca khúc "Touch My Heart" làm nhạc nền cho bộ phim "Personal Taste".

Ngày 23 tháng 7 năm 2010, Core Contents Media thông báo rằng Lee Soomi sẽ rời SeeYa để tham gia vào nhóm mới Co-Ed School, SeeYa tiếp tục hoạt động với 2 thành viên.

Ngày 13 tháng 12 năm 2010, Core Content Media tuyên bố SeeYa sẽ giải tán sau khi phát hành album tiếp theo của họ. Core Content Media tuyên bố quyết định được thực hiện dựa trên yêu cầu của các thành viên.[14] Tuy nhiên, nhiều người tỏ ra nghi ngờ về điều này.[15][16] Nam Gyuri quyết định tham gia cùng các thành viên cũ trong chương trình quảng bá cuối cùng của họ. SeeYa phát hành album cuối cùng của họ vào ngày 10 tháng 1 năm 2011: "See You Again" - một album tổng hợp với hai ca khúc mới. Nhóm giải tán sau màn trình diễn cuối cùng (bao gồm cả Gyuri) vào ngày 30 tháng 1 năm 2011, trên sân khấu Inkigayo. Trong tháng 11 năm 2012, Core Content Media ra mắt một nhóm mới dựa trên mô hình của SeeYa dưới tên The SeeYa.[17]

Danh sách các cựu thành viên

[sửa | sửa mã nguồn]
Nghệ danh Tên khai sinh Ngày sinh Nơi sinh Vị trí đảm nhiệm
Gyuri Nam Gyuri 26 - 4 - 1985 (35 tuổi) Seoul - Hàn Quốc Trưởng nhóm, Nhảy chính, Hát dẫn, Rap dẫn, Trực quan, Vị trí trung tâm, Gương mặt đại diện.
Yeonji Kim Yeonji 30 - 10 - 1986 (34 tuổi) Anyang - Hàn Quốc Hát chính.
Boram Lee Boram 17 - 2 - 1987 (33 tuổi) Seongnam - Hàn Quốc Hát dẫn.
Soomi Lee Soomi 3 - 3 - 1989 (31 tuổi) Seoul - Hàn Quốc Rap chính, Hát dẫn, Nhảy dẫn, Em út.

Danh sách đĩa nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]

Albums phòng thu

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Thông tin album Xếp hạng cao nhất Bán
2006 The First Mind
  • Phát hành: 24 tháng 2 năm 2006
  • Nhãn: Poibos Co. Ltd
107,928+
2007 Lovely Sweet Heart
  • Phát hành: 25 tháng 5 năm 2007
  • Nhãn: Poibos Co.
2 81,723[18]
2008 California Dream
  • Phát hành: 2 tháng 1 năm 2008
  • Nhãn: Poibos Co. Ltd
22,352+[19]
Brilliant Change
  • Phát hành: 26 tháng 9 năm 2008
  • Nhãn: Poibos Co. Ltd
25,711+[20]

Mini albums

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Thông tin album
2009 Rebloom
  • Phát hành: 26 tháng 10 năm 2009
  • Nhãn: Poibos Co. Ltd

Compilations

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Thông tin album
2007 All Star: Composer Jo Young Soo Project Album 1st
  • Phát hành: 2 tháng 2 năm 2007
  • Nhãn: CJ Music
2008 All Star: 2nd album Vol.4 - SEEYA & LEEJIHYE
  • Phát hành: 20 tháng 3 năm 2008
  • Nhãn: CJ Music
2011 See You Again [Last Album]

Giải thưởng

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Giải thưởng
2006
2007
2008

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Kang Seok-bong (강석봉) (ngày 26 tháng 3 năm 2006). “씨야 '단내' 끝에 '향기' 품다” (bằng tiếng Triều Tiên). Naver / Kyunghyang Sinmun.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  2. ^ Kim, Won-gyeom (김원겸) (ngày 7 tháng 2 năm 2006). '여자 sg워너비' 씨야, 얼굴 공개” (bằng tiếng Triều Tiên). Star News.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  3. ^ “씨야 '미친 사랑의 노래' 1위 등극” (bằng tiếng Triều Tiên). Naver / Yonhap. ngày 19 tháng 7 năm 2006.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  4. ^ Park Jin-hui (박진희) (ngày 28 tháng 5 năm 2007). “씨야, 2집 발매 하루만에 1위 '함박웃음' (bằng tiếng Triều Tiên). Sports Seoul TV.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  5. ^ Kim Mi-na (김미나). '1월 가요음반 판매량집계” (bằng tiếng Triều Tiên). Recording Industry Association Korea. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2013. Đã bỏ qua tham số không rõ |Năm= (gợi ý |năm=) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  6. ^ Im Hui-yun (임희윤) (ngày 21 tháng 5 năm 2007). “씨야, 2집 앨범서 엘가의 '사랑의 인사' 샘플링” (bằng tiếng Triều Tiên). Herald Media INC.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  7. ^ a b c (tiếng Hàn)씨야, MKMF 이어 골든디스크 디지털 음원상 수상
  8. ^ (tiếng Hàn)남규리, 씨야 멤버와 사이 안 좋았나? 악마는 누구?(전문 포함)"
  9. ^ http://www.hanteo.com/community/board/view.asp?sel_code=1&Num=28870599&block=0&gotopage=1
  10. ^ (tiếng Hàn)남규리 "씨야 합류계획無..배우로 새출발"공식입장"
  11. ^ (tiếng Hàn)남규리, 日 드라마 OST 참여…'가수 복귀' Lưu trữ 2013-12-15 tại Wayback Machine
  12. ^ (tiếng Hàn)남규리, 디지털 싱글 '별빛눈물'로 팬에게 깜짝선물 Lưu trữ 2013-12-18 tại Wayback Machine
  13. ^ “SeeYa's Nam Gyu-ri Out of the Group”. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2013.
  14. ^ (tiếng Hàn)김광수대표 호소 "씨야 연지야 돌아와라"(인터뷰)"
  15. ^ (tiếng Hàn)"연지야 나가지 말아라" 코어 김광수 대표,심경고백 or 언론플레이?" Lưu trữ 2013-02-18 tại Archive.today
  16. ^ (tiếng Hàn)"김연지에 호소? 비겁하고 파렴치한 김광수 사장" Lưu trữ 2014-09-17 tại Wayback Machine
  17. ^ (tiếng Hàn)"‘제2의 씨야’ 더씨야 11월5일 드디어 얼굴 공개"
  18. ^ (tiếng Hàn) "October - 2007 Monthly Album Sales" Lưu trữ 2009-02-15 tại Wayback Machine
  19. ^ (tiếng Hàn) "January 2008 Kpop Album Sales" Lưu trữ 2008-12-30 tại Wayback Machine
  20. ^ (tiếng Hàn) "Hanteo Information System"[liên kết hỏng]
  21. ^ (tiếng Hàn)씨야, '선배님들이 인정해준 상, 감격스러워요'
  22. ^ KOFICE 3rd Asia Song Festival Lưu trữ 2011-08-29 tại Wayback Machine ngày 22 tháng 9 năm 2006. Truy cập 2011-10-12
  23. ^ a b c d (tiếng Hàn)씨야 "2006년 신인상-2007년 본상, 2008년은 대상?"
  24. ^ (tiếng Hàn)씨야, MKMF 최우수 OST상 수상